- 09. PHẨM NHÂN
-
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ các Tỳ-kheo sau bữa ăn trưa, chưa có
chút công việc nên tập trung ngồi tại giảng đường. Lúc ấy, một
số đông những người Dị học, sau bữa cơm trưa loanh quanh tìm
đến chỗ các Tỳ-kheo, cùng nhau chào hỏi rồi ngồi một bên, nói
với các Tỳ-kheo rằng:
“Này chư Hiền, Sa-môn Cù-đàm chủ trương biến
tri dục[02],
chủ trương biến tri sắc, chủ trương biến tri thọ[03].
Này chư Hiền, chúng tôi cũng chủ trương biến tri dục, chủ
trương biến tri trừ sắc, chủ trương biến tri thọ. Giữa Sa-môn
Cù-đàm và chúng tôi, giữa hai[04]
chủ trương biến tri[05]
ấy, có sự thù thắng nào, có những sai biệt nào?”
“Lúc bấy giờ các Tỳ-kheo khi nghe những điều mà
số đông những người Dị học ấy nói, không biết thế nào là phải,
thế nào là trái, im lặng đứng dậy mà đi, đồng thời suy nghĩ
rằng: ‘Những điều như vậy, chúng ta phải do nơi Đức Thế Tôn
mới biết’.
Rồi họ đi đến Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, ngồi
một bên, đem những điều đã bàn luận với số đông những người Dị
học ấy thuật lại với Đức Phật. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các
Tỳ-kheo rằng:
“Lúc đó các ông nên hỏi số đông những người Dị
học như vầy, ‘Này chư Hiền, thế nào là vị ngọt của dục, thế
nào là tai họa của dục, thế nào là sự xuất yếu của dục[06]?
Thế nào là vị ngọt của sắc, thế nào là tai họa của sắc, thế
nào là sự xuất yếu của sắc? Thế nào là vị ngọt của thọ, thế
nào là tai họa của thọ, thế nào là sự xuất yếu của thọ?
“Này các Tỳ-kheo, nếu các ông hỏi như vậy, sau
khi nghe, họ sẽ cật vấn lẫn nhau, nói quanh nói quẩn, nổi sân
và cãi cọ rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, im lặng và rút lui. Vì sao
vậy? Vì Ta không thấy có những chư thiên, Ma, Phạm, Sa-môn,
Phạm chí hay bất cứ ai khác ở trên đời này có thể biết được
nghĩa ấy để tuyên bố lên. Chỉ có Như Lai và đệ tử của Như Lai,
hoặc đệ tử nào đượïc nghe từ hai vị này”.
Đức Phật lại hỏi:
“Thế nào là vị ngọt của dục? Đó là, nhân bởi
năm công đức của dục[07]
mà phát sanh lạc và hỷ. Vị ngọt của dục chỉ tột cùng đến đó
chứ không thể hơn nữa, nhưng tai họa của nó thì rất nhiều.
“Thế nào là tai họa của dục? Một thiện gia nam
tử, tùy kỹ thuật[08]
riêng mà tự mưu sinh; hoặc làm ruộng, hoặc buôn bán, hoặc học
sách, hoặc giỏi toán thuật, biết công số, khéo in khắc, làm
văn chương, tạo thủ bút, hoặc hiểu kinh thơ, hoặc làm võ
tướng, hoặc phụng sự vua[09].
Người ấy khi gặp lạnh phải chịu lạnh, gặp nóng phải chịu nóng,
bị đói khát nhọc mệt, bị muỗi mòng châm chích; nó phải làm
nghề nghiệp như thế để mong kiếm được tiền của. Thiện nam tử
bằng những phương tiện như thế, làm các công việc như vậy để
mong cầu như vậy, nếu không kiếm được tiền của thì sinh khổ
sở, lo buồn rầu rĩ, tâm thành si dại, nói rằng ‘Luống công làm
lụng khổ nhọc vô ích mà những điều mong cầu không có kết quả’.
Trái lại, thiện nam tử ấy bằng những phương tiện như vậy để
mong cầu như vậy, nếu kiếm được tiền của nó sanh yêu quý, giữ
gìn, chôn giấu. Vì sao vậy? Nó nghĩ: ‘Tài vật này của ta, đừng
để cho vua đoạt, giặc cướp, lửa thiêu, hư hại, mất mát, hoặc
xuất tài mà vô lợi, hoặc làm việc mà không thành tựu’. Kẻ đó
giữ gìn, chôn giấu như vậy nhưng nếu rủi bị vua đoạt, hoặc
giặc cướp, lửa thiêu hư hại mất thì sinh khổ sở, lo buồn rầu
rĩ, tâm thành si ám, nói rằng: ‘Vật ta yêu quý, nhớ nghĩ suốt
đêm ngày, nay đã không còn’. Đó là những nỗi thống khổ ở đời
này[10],
nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi
dục, lấy dục làm gốc nên mẹ tranh cãi với con, con tranh cãi
với mẹ, cha con, anh em, chị em, bà con dòng họ tranh cãi lẫn
nhau. Vì tranh cãi lẫn nhau như vậy nên mẹ nói xấu con, con
nói xấu mẹ. Cha con, anh em, chị em, bà con dòng họ nói xấu
lẫn nhau. Thân thích còn vậy, huống nữa là người dưng. Đó là
những nỗi thống khổ ở đời này nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy
dục làm gốc.
“Lại nữa, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi
dục, lấy dục làm gốc nên vua tranh giành với vua, Phạm chí
tranh giành với Phạm chí, Cư sĩ tranh giành với Cư sĩ, dân
tranh giành với dân, nước này tranh giành với nước nọ. Bởi
tranh giành nên thù nghịch nhau, rồi dùng đủ loại binh khí để
giết hại lẫn nhau, hoặc nắm tay thoi, ném đá, hoặc dùng gậy
đánh, dao chặt. Trong khi giao đấu, hoặc chết, hoặc sợ hãi,
thọ cực trọng khổ. Đó là những nỗi thống khổ ở đời này nhân
nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi
dục, lấy dục làm gốc nên mang khôi giáp, khoác trường bào, cầm
giáo mác, cung tên, hoặc cầm dao thuẫn, đi vào quân trận. Hoặc
đánh nhau bằng voi, hoặc ngựa, hoặc xe, hoặc dùng bộ binh đánh
nhau, hoặc cho trai gái đánh nhau. Trong khi giao đấu, hoặc
chết, hoặc sợ hãi, thọ cực trong khổ. Đó là những nỗi thống
khổ ở đời này nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi
dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, mặc trường bào, cầm
giáo mác, cung tên, hoặc cầm dao thuẫn, đi tranh đoạt nước
người, công thành phá lũy, chống cự lẫn nhau, thúc trống thổi
kèn, lớn tiếng reo hò, hoặc dùng chày đập, hoặc dùng mâu kích,
hoặc dùng bánh xe bén, hoặc dùng tên bắn, hoặc lăn đá kè, hoặc
dùng nỏ lớn, hoặc rót nước đồng sôi vào mắt. Trong khi giao
đấu, hoặc chết, hoặc sợ hãi, thọ cực trọng khổ. Đó là những
nỗi thống khổ ở đời này nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục
làm gốc.
“Lại nữa, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi
dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, mặc trường bào, cầm
giáo mác, cung tên, hoặc cầm dao thuẫn vào xóm, vào ấp, vào
quốc gia, vào thành thị, đục vách phá kho, cướp đoạt tài vật,
chận đường giao thông, hoặc đến ngõ khác phá xóm phá làng, phá
thành diệt nước. Trong đó, hoặc người của vua bắt được, đem
khảo đủ cách; chặt tay, chặt chân, hoặc chặt hết cả tay chân;
cắt tai, cắt mũi, hoặc cắt cả tai mũi; hoặc lóc từng miếng
thịt; bứt râu bứt tóc, hoặc bứt cả râu tóc; hoặc nhốt vào
trong cũi, quấn vải hỏa thiêu, hoặc lấp trong cát, lấy cỏ quấn
lại rồi đốt; hoặc bỏ vô bụng lừa sắt, hoặc bỏ vô miệng heo
sắt, hoặc đặt vào miệng cọp sắt rồi đốt, hoặc bỏ vô vạc đồng,
hoặc bỏ vô vạc sắt rồi nấu; hoặc chặt ra từng khúc, hoặc dùng
xoa bén đâm, hoặc lấy móc sắt móc, hoặc bắt nằm trên giường
sắt rồi lấy dầu sôi rót, hoặc bắt ngồi trong cối sắt rồi lấy
chày sắt giã, hoặc cho rắn rít mổ cắn, hoặc dùng roi quất,
hoặc dùng gậy thọt, hoặc dùng dùi đánh, hoặc buộc sống treo
trên nêu cao, hoặc chém đầu rồi bêu. Trong các trường hợp đó,
kẻ ấy hoặc chết, hoặc sợ hãi, thọ cực trọng khổ. Đó là những
nỗi thống khổ ở đời này nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục
làm gốc.
“Lại nữa, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi
dục, lấy dục làm gốc nên thân làm ác, khẩu làm ác, ý làm ác.
Kẻ đó về sau bệnh tật liệt giường, hoặc ngồi hoặc nằm trên
đất, vì khổ bức thân, toàn thân cảm giác khổ sở vô cùng, không
còn đáng yêu thích. Kẻ đó vì lúc trước thân làm ác, khẩu làm
ác, ý làm ác nên khi sắp chết chúng che ngay trước mắt giống
như mặt trời lặn bóng sườn núi lớn, che lấp mặt đất[11].
Cũng vậy, kẻ ấy bị những ác hành của thân, ác hành của khẩu và
của ý che lấp trước mắt, kẻ đó nghĩ rằng: ‘Ác hành ta làm
trước kia, bây giờ chúng che trước mắt ta. Trước ta không tạo
phước nghiệp mà tạo nhiều ác nghiệp. Giả tỷ có ai chỉ làm ác,
hung bạo, chỉ làm tội chứ không làm phước, không hành thiện,
khi sống không biết lo sợ, gần chết không chỗ nương cậy, không
chỗ quay về. Người ấy thân sanh về cõi nào, ta cũng thác sinh
về chỗ đó’. Do đó, sanh hối hận, rồi do hối hận mà chết không
an, chết không được phước. Đó là những nỗi thống khổ ở đời này
nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi
dục, lấy dục làm gốc nên thân làm ác, khẩu và ý làm ác. Kẻ đó
vì thân làm ác, khẩu và ý làm ác nên nhân nơi đó, duyên nơi đó
mà khi thân hoại mạng chung phải đến chỗ ác, sanh vào địa
ngục. Đó là những nỗi khổ ở đời sau nhân nơi dục, duyên nơi
dục, lấy dục làm gốc. Như vậy là tai họa của dục.
“Thế nào là sự xuất yếu của dục? Nếu đoạn trừ
dục, xả ly dục, diệt tận dục, vượt qua khỏi dục mà thoát ly.
Như vậy gọi là sự xuất yếu của dục.
“Nếu Sa-môn, Phạm chí nào mà không biết đúng
như thật vị ngọt của dục, tai họa của dục, sự xuất yếu của
dục, thì không bao giờ có thể tự mình đoạn dục, huống nữa là
đoạn dục cho kẻ khác.
“Nếu Sa-môn, Phạm chí nào biết đúng như thật vị
ngọt của dục, tai họa của dục, sự xuất yếu của dục, thì không
những có thể tự mình đoạn dục mà có thể đoạn dục cho kẻ khác.
“Thế nào là vị ngọt của sắc? Giả sử có các
thiếu nữ Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ hay Công sư đến tuổi mười
bốn, mười lăm, là lúc có sắc đẹp mỹ miều. Nhân nơi sắc đẹp đó,
duyên nơi sắc đẹp đó mà sanh lạc, sanh hỷ; vị ngọt của sắc chỉ
tột cùng đến đó chứ không hơn nữa. Nhưng tai hại của sắc thì
rất nhiều.
“Thế nào là tai hại của sắc? Nếu thấy nàng ấy
về sau trở nên hết sức già yếu, đầu bạc, răng rụng, lưng còng,
gối rũ, chống gậy mà đi, tuổi trẻ đã tàn, mạng sống sắp hết,
thân thể run rẩy, các căn hư mòn. Ý các ngươi nghĩ sao? Có
phải sắc đẹp trước kia đã biến mất và sanh ra tai họa chăng?
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy”.
“Lại nữa, nếu thấy nàng ấy bệnh tật liệt
giường, ngồi nằm trên đất, vì khổ bức thân, chịu khổ cùng cực,
ý các ngươi nghĩ sao, có phải sắc đẹp trước kia biến mất, sanh
ra tai họa chăng?”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy”.
“Lại nữa, nếu thấy xác nàng ấy đã chết từ một,
hai ngày đến sáu bảy ngày, đang bị quạ diều bươi mổ, sài lang
cấu xé, hoặc đã được hỏa thiêu hay chôn lấp, đang bị mục nát
hư hoại. Ý các ngươi nghĩ sao? Có phải sắc đẹp trước đã biến
mất và tai họa sanh ra chăng?”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy?”
“Lại nữa, nếu thấy xác nàng ấy ở trong nghĩa
địa, hài cốt xám xanh, mục nát quá nữa, xương vải trên đất. Ý
các ngươi nghĩ sao? Có phải sắc đẹp trước kia đã biến mất và
tai họa sanh ra chăng?”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy”.
“Lại nữa, nếu thấy xác nàng ấy ở trong nghĩa
địa, xương rời từng đốt, tản mác khắp nơi, xương chân, xương
đùi, xương đầu gối, xương bắp vế, xương sống, xương vai, xương
cổ, xương sọ, mỗi thứ một nơi, ý các thầy nghĩ sao? Có phải
sắc đẹp trước kia đã biến mất và tai họa sanh ra chăng?”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy”.
“Lại nữa, nếu thấy xác nàng ấy ở trong nghĩa
địa, xương trắng như vỏ ốc, xanh như lông chim câu, đỏ như màu
máu, hư hoại, mục nát. Ý các ngươi nghĩ sao? Có phải sắc đẹp
trước kia đã biến mất và tai họa sanh ra chăng?”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Như vậy gọi là tai họa
của sắc”.
“Thế nào là sự xuất yếu của sắc? Nếu đoạn trừ
sắc, xả ly sắc, diệt tận sắc, vượt qua khỏi sắc mà thoát ly.
Như vậy gọi là sự xuất yếu của sắc.
“Nếu Sa-môn, Phạm chí nào mà không biết đúng
như thật vị ngọt của sắc, tai họa của sắc, sự xuất yếu của
sắc, thì không bao giờ có thể tự mình đoạn sắc, huống nữa là
đoạn sắc cho kẻ khác.
“Nếu Sa-môn, Phạm chí nào biết đúng như thật vị
ngọt của sắc, tai họa của sắc, sự xuất yếu của sắc thì không
những tự mình đoạn sắc, mà còn có thể đoạn sắc cho kẻ khác.
“Thế nào là vị ngọt của thọ? Tỳ-kheo ly dục, ly
pháp ác bất thiện, cho đến, thành tựu và an trụ nơi đệ Tứ
thiền. Bấy giờ, vị đó không nghĩ đến việc tự hại, cũng không
nghĩ đến sự hại người. Nếu không nghĩ đến hại, đó là vị ngọt
của cảm giác lạc. Vì sao vậy? Vì không nghĩ đến sự làm hại thì
thành tựu được cảm giác lạc ấy. Như vậy gọi là vị ngọt của
thọ.
“Thế nào là tai họa của thọ? Thọ là pháp vô
thường, pháp diệt. Như vậy gọi là tai họa của thọ.
“Thế nào là sự xuất yếu của thọ? Nếu đoạn trừ
thọ, xả ly thọ, diệt tận thọ, vượt qua thọ mà thoát ly. Như
vậy gọi là sự xuất ly của thọ.
“Nếu Sa-môn, Phạm chí nào mà không biết đúng
như thật vị ngọt của thọ, tai họa của thọ, xuất yếu của thọ
thì không bao giờ có thể tự mình đoạn thọ, huống nữa là đoạn
thọ cho kẻ khác.
“Nếu Sa-môn, Phạm chí nào biết đúng như thật vị
ngọt của thọ, tai họa của thọ, xuất yếu của thọ thì không
những tự mình có thể đoạn thọ, mà còn có thể đoạn thọ cho kẻ
khác”.
Phật thuyết giảng như vậy. Các Tỳ-kheo ấy sau
khi nghe thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán, quyển
25. Tương đương Pāli: M.13, Mahā-dukkhakkhandha. Hán, biệt
dịch No.53, No.125 (21.9).
-
[02] Nguyên Hán: biến
tri dục, biết thấu đáo về dục. Pāli: kāmāna pariñña.
-
[03] Giác.
-
[04] Bản Cao-li chép
nhị; các bản khác chép tam.
-
[05] Các bản chép:
nhị (tam) tri nhị (tam) đoạn, dư chữ nhị (tam) thứ hai.
-
[06] Dục vị, dục
hoạn, dục xuất yếu. Pāli: kāmāna assādo, kāmāna ādīnavo, kāmān
nissaraa, vị ngọt, sự tai hại và thoát ly đối với các dục.
-
[07] Ngũ dục công
đức. Pāli: pañca kāmaguā.
-
[08] Hán: kỹ thuật.
Pāli: sippahanena, bằng công xảo xứ.
-
[09] Các “kỹ thuật”
theo bản. Hán: tác điền nghiệp, hành trị sanh, minh toán
thuật, tri công số, xảo khắc ấn, tác văn chương, tạo thủ bút,
hiểu kinh thư, tác dũng tướng, phụng vương sự. Danh sách theo
bản Pāli: yadi muddāya yadi gaanāya yadi sakhānena yadi kasiyā
yadi vaijjāya yadi gorakkhena yadi issatthena yadi
rājaporisena, hoặc bằng ấn toán (hay thuật khắc ấn), bằng ám
toán (tính trầm), mục toán (số học), canh nông, thương mãi,
mục súc (chăn bò), làm tên (chế tạo vũ khí), và quan chức
(phục vụ vua).
-
[10] Hiện pháp khổ
ấm. Pāli: sandihiko dukkhakhando, khổ uẩn được chứng kiến.
-
[11] No.53: “Lúc mặt
trời sắp lặn, bóng mát đổ ngược xuống giữa hai ngọn núi lớn”.