- 09. PHẨM NHÂN
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật đến Thích-ki-sấu, trú tại
Ca-duy-la-vệ, vườn Ni-câu-loại.[02]
Bấy giờ Thích Ma-ha-nam[03],
sau bữa ăn trưa tìm đếm chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi
ngồi qua một bên mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con biết Thế Tôn dạy pháp như
vậy khiến tâm con được diệt ba uế, nhiễm tâm uế, nhuế tâm uế
và si tâm uế[04].
Bạch Thế Tôn, con biết pháp ấy như vậy nhưng trong tâm con lại
sinh nhiễm pháp, nhuế pháp và si pháp. Bạch Thế Tôn, con suy
nghĩ như vầy, ‘Ta có pháp gì không bị diệt trừ, khiến tâm ta
lại sinh pháp nhiễm, pháp nhuế, pháp si?”
Thế Tôn bảo:
“Này Ma-ha-nam, ông có một pháp không bị diệt
trừ, cho nên ông sống tại gia, không chí tín, lìa bỏ gia đình,
sống không gia đình mà học đạo này. Ma-ha-nam, nếu ông diệt
được pháp đó, ông sẽ không sống tại gia mà chí tín, lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình, học đạo. Bởi vì có một pháp không
bị diệt trừ mà ông sống tại gia, không chí tín, lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình, học đạo”.
Khi ấy Thích Ma-ha-nam liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng về Phật mà bạch
rằng:
“Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nói pháp cho con
nghe để tâm con được thanh tịnh, trừ nghi, đắc đạo”.
Thế Tôn nói:
“Ma-ha-nam, có năm công đức của dục, đáng yêu,
đáng mơ tưởng, đáng vui thích, có liên hệ đến dục, khiến cho
người khoái lạc. Những gì là năm? Đó là, sắc được biết bởi
mắt, âm thanh được biết bởi tai, hương được biết bởi mũi, vị
được biết bởi lưỡi, xúc được biết bởi thân. Do đây mà nhà vua
và quyến thuộc của nhà vua được an lạc hoan hỷ. Ma-ha-nam, vị
ngọt của dục chỉ cùng cực đến đó chứ không hơn nữa, nhưng tai
họa của nó thì lại rất nhiều.
“Ma-ha-nam, thế nào là tai họa của dục?
“Ma-ha-nam, một thiện gia nam tử, tùy kỹ thuật[05]
riêng mà tự mưu sinh; hoặc làm ruộng, hoặc buôn bán, hoặc học
sách, hoặc giỏi toán thuật, biết công số, khéo in khắc, làm
văn chương, tạo thủ bút, hoặc hiểu kinh thơ, hoặc làm võ
tướng, hoặc phụng sự vua. Người ấy khi gặp lạnh phải chịu
lạnh, gặp nóng phải chịu nóng, bị đói khát nhọc mệt, bị muỗi
mòng châm chích; nó phải làm nghề nghiệp như thế để mong kiếm
được tiền của. Thiện nam tử bằng những phương tiện như thế,
làm các công việc như vậy để mong cầu như vậy, nếu không kiếm
được tiền của thì sinh khổ sở, lo buồn rầu rĩ, tâm thành si
dại, nói rằng ‘Luống công làm lụng khổ nhọc vô ích mà những
điều mong cầu không có kết quả’. Trái lại, thiện nam tử ấy
bằng những phương tiện như vậy để mong cầu như vậy, nếu kiếm
được tiền của nó sanh yêu quý, giữ gìn, chôn giấu. Vì sao vậy?
Nó nghĩ: ‘Tài vật này của ta, đừng để cho vua đoạt, giặc cướp,
lửa thiêu, hư hại, mất mát, hoặc xuất tài mà vô lợi, hoặc làm
việc mà không thành tựu’. Kẻ đó giữ gìn, chôn giấu như vậy
nhưng nếu rủi bị vua đoạt, hoặc giặc cướp, lửa thiêu hư hại
mất thì sinh khổ sở, lo buồn rầu rĩ, tâm thành si ám, nói
rằng: ‘Vật ta yêu quý, nhớ nghĩ suốt đêm ngày, nay đã không
còn’. Ma-ha-nam, đó là những nỗi thống khổ ở đời này[06],
nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mẹ tranh cãi với con,
con tranh cãi với mẹ, cha con, anh em, chị em, bà con dòng họ
tranh cãi lẫn nhau. Vì tranh cãi lẫn nhau như vậy nên mẹ nói
xấu con, con nói xấu mẹ. Cha con, anh em, chị em, bà con dòng
họ nói xấu lẫn nhau. Thân thích còn vậy, huống nữa là người
dưng. Ma-ha-nam, đó là những nỗi thống khổ ở đời này nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên vua tranh giành với
vua, Phạm chí tranh giành với Phạm chí, Cư sĩ tranh giành với
Cư sĩ, dân tranh giành với dân, nước này tranh giành với nước
nọ. Bởi tranh giành nên thù nghịch nhau, rồi dùng đủ loại binh
khí để giết hại lẫn nhau, hoặc nắm tay thoi, ném đá, hoặc dùng
gậy đánh, dao chặt. Trong khi giao đấu, hoặc chết, hoặc sợ
hãi, thọ cực trọng khổ. Ma-ha-nam, đó là những nỗi thống khổ ở
đời này nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang khôi giáp, khoác
trường bào, cầm giáo mác, cung tên, hoặc cầm dao thuẫn, đi vào
quân trận. Hoặc đánh nhau bằng voi, hoặc ngựa, hoặc xe, hoặc
dùng bộ binh đánh nhau, hoặc cho trai gái đánh nhau. Trong khi
giao đấu, hoặc chết, hoặc sợ hãi, thọ cực trọng khổ.
Ma-ha-nam, đó là những nỗi thống khổ ở đời này nhân nơi dục,
duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, mặc
trường bào, cầm giáo mác, cung tên, hoặc cầm dao thuẫn, đi
tranh đoạt nước người, công thành phá lũy, chống cự lẫn nhau,
thúc trống thổi kèn, lớn tiếng reo hò, hoặc dùng chày đập,
hoặc dùng mâu kích, hoặc dùng bánh xe bén, hoặc dùng tên bắn,
hoặc lăn đá kè, hoặc dùng nỏ lớn, hoặc rót nước đồng sôi vào
mắt. Trong khi giao đấu, hoặc chết, hoặc sợ hãi, thọ cực trọng
khổ. Ma-ha-nam, đó là những nỗi thống khổ ở đời này nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, mặc
trường bào, cầm giáo mác, cung tên, hoặc cầm dao thuẫn vào
xóm, vào ấp, vào quốc gia, vào thành thị, đục vách phá kho,
cướp đoạt tài vật, chận đường giao thông, hoặc đến ngõ khác
phá xóm phá làng, phá thành diệt nước. Trong đó, hoặc người
của vua bắt được, đem khảo đủ cách; chặt tay, chặt chân, hoặc
chặt hết cả tay chân; cắt tai, cắt mũi, hoặc cắt cả tai mũi;
hoặc lóc từng miếng thịt; bứt râu bứt tóc, hoặc bứt cả râu
tóc; hoặc nhốt vào trong cũi, quấn vải hỏa thiêu, hoặc lấp
trong cát, lấy cỏ quấn lại rồi đốt; hoặc bỏ vô bụng lừa sắt,
hoặc bỏ vô miệng heo sắt, hoặc đặt vào miệng cọp sắt rồi đốt,
hoặc bỏ vô vạc đồng, hoặc bỏ vô vạc sắt rồi nấu; hoặc chặt ra
từng khúc, hoặc dùng xoa bén đâm, hoặc lấy móc sắt móc, hoặc
bắt nằm trên giường sắt rồi lấy dầu sôi rót, hoặc bắt ngồi
trong cối sắt rồi lấy chày sắt giã, hoặc cho rắn rít mổ cắn,
hoặc dùng roi quất, hoặc dùng gậy thọt, hoặc dùng dùi đánh,
hoặc buộc sống treo trên nêu cao, hoặc chém đầu rồi bêu. Trong
các trường hợp đó, kẻ ấy hoặc chết, hoặc sợ hãi, thọ cực trọng
khổ. Ma-ha-nam, đó là những nỗi thống khổ ở đời này nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên thân làm ác, khẩu làm
ác, ý làm ác. Kẻ đó về sau bệnh tật liệt giường, hoặc ngồi
hoặc nằm trên đất, vì khổ bức thân, toàn thân cảm giác khổ sở
vô cùng, không còn đáng yêu thích. Kẻ đó vì lúc trước thân làm
ác, khẩu làm ác, ý làm ác nên khi sắp chết chúng che ngay
trước mắt giống như mặt trời lặn bóng sườn núi lớn, che lấp
mặt đất[07].
Cũng vậy, kẻ ấy bị những ác hành của thân, ác hành của khẩu và
của ý che lấp trước mắt, kẻ đó nghĩ rằng: ‘Ác hành ta làm
trước kia, bây giờ chúng che trước mắt ta. Trước ta không tạo
phước nghiệp mà tạo nhiều ác nghiệp. Giả tỷ có ai chỉ làm ác,
hung bạo, chỉ làm tội chứ không làm phước, không hành thiện,
khi sống không biết lo sợ, gần chết không chỗ nương cậy, không
chỗ quay về. Người ấy thân sanh về cõi nào, ta cũng thác sinh
về chỗ đó’. Do đó, sanh hối hận, rồi do hối hận mà chết không
an, chết không được phước. Ma-ha-nam, đó là những nỗi thống
khổ ở đời này nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Lại nữa, Ma-ha-nam, vì chúng sanh nhân nơi
dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên thân làm ác, khẩu và ý
làm ác. Kẻ đó vì thân làm ác, khẩu và ý làm ác nên nhân nơi
đó, duyên nơi đó mà khi thân hoại mạng chung phải đến chỗ ác,
sanh vào địa ngục. Ma-ha-nam, đó là những nỗi khổ ở đời sau
nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
“Ma-ha-nam, Vì vậy nên biết, dục tuyệt đối
không có lạc, chỉ có vô lượng khổ hoạn. Đa văn Thánh đệ tử nếu
không biết đúng như thật, vị ấy bị dục phủ kín, không đạt được
an lạc do xả[08]
và vô thượng tịch tĩnh. Ma-ha-nam, Đa văn Thánh đệ tử như vậy
sẽ nhân nơi dục mà bị thoái chuyển.
“Ma-ha-nam, Ta biết là dục không có lạc mà chỉ
là vô lượng khổ hoạn. Biết như thật rồi, Ma-ha-nam, Ta không
bị dục phủ kín, cũng không bị pháp ác quấn chặt. Vì vậy đạt
được an lạc do xả và vô thượng tịch tĩnh. Ma-ha-nam, vì vậy Ta
không nhân nơi dục mà bị thoái chuyển.
“Ma-ha-nam, một thời, Ta sống tại thành Vương
xá, trú trong động Tiên nhân Thất diệp, ở trên núi Bệ-đa-la[09].
“Ma-ha-nam, lúc bấy giờ vào lúc xế trưa, Ta từ
chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Quảng sơn[10],
Ta thấy ở đó có nhiều người Ni-kiền đang tu hạnh không ngồi,
thường đứng mà không ngồi, chịu khổ cùng cực. Ta bước đến hỏi:
‘Này các Ni-kiền! Vì sao các ông tu hạnh không ngồi này,
thường đứng không ngồi, chịu khổ như vậy?’ Họ trả lời như vầy,
‘Này Cù-đàm, tôi có tôn sư Ni-kiền tên là Thân tử. Ngài dạy
tôi rằng: ‘Này các Ni-kiền, đời trước ngươi nếu có nghiệp bất
thiện, thì nhờ khổ hạnh này ngươi sẽ được hết. Nếu nay giữ gìn
diệu hạnh của thân, giữ gìn diệu hạnh của khẩu, của ý, thì sẽ
do nhân đó, duyên đó mà không trở lại làm ác, tạo nghiệp bất
thiện’.’ “Ma-ha-nam, Ta hỏi lại rằng: ‘Này các Ni-kiền, các
ông tin tưởng tôn sư, không hề nghi ngờ gì cả chăng?’ Họ trả
lời Ta, “Đúng vậy, Cù-đàm, chúng tôi tin tưởng các đức tôn sư,
không hề nghi ngờ gì cả’. Ma-ha-nam, Ta lại hỏi: ‘Này Ni-kiền,
nếu quả như vậy thì tôn sư Ni-kiền của các ông trước kia đã
tạo các nghiệp ác bất thiện rất nặng, vị ấy vốn trước kia là
Ni-kiền rồi chết đi, nay sanh vào nhân gian, xuất gia làm
Ni-kiền, tu hạnh không ngồi, thường đứng không ngồi, chịu khổ
sở như vậy, cũng như bọn các ông và đệ tử các ông vậy’. Họ lại
nói với Ta: ‘Này Cù-đàm, lạc không nhân nơi lạc, nhưng nhân
nơi khổ mới có. Như sự lạc của vua Tần-bệ-sa-la[11]
thì Sa-môn Cù-đàm không bằng được’. Ta lại nói: ‘Các ông si
cuống, nói điều vô nghĩa. Tại sao? Các ông không khéo léo,
không hiểu biết gì cả. Mà khi không biết, nên các ông nói,
‘Như sự lạc của vua Tần-bệ-sa-la thì Sa-môn Cù-đàm không bằng
được’. Này Ni-kiền, đáng lẽ các ông phải hỏi như thế này:
‘Tần-bệ-sa-la và Sa-môn Cù-đàm, ai sung sướng hơn?’ Này
Ni-kiền, nếu như Ta nói rằng: ‘Sự lạc của Ta hơn, vua
Tần-bệ-sa-la không bằng,’ thì này Ni-kiền, các ông có thể nói
như vầy, ‘ Sự lạc của vua Tần-bệ-sa-la, Sa-môn Cù-đàm không
bằng’. Các Ni-kiền đó liền nói như vầy, ‘Thưa Cù-đàm, nay
chúng tôi muốn hỏi Cù-đàm, giữa vua Tần-bệ-sa-la và Sa-môn
Cù-đàm, ai sung sướng hơn?’ Ta lại nói, ‘Này Ni-kiền, Ta nay
hỏi ông, tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Này Ni-kiền, ý ông
nghĩ sao, vua Tần-bệ-sa-la có đạt được sự tịch mặc vô ngôn như
ý, nhân đó mà được hoan hỷ, khoái lạc trong bảy ngày bảy đêm
không?’ Ni-kiền đáp, ‘Không, thưa Cù-đàm’. Ta hỏi, ‘Thế có
được hoan hỷ, khoái lạc trong vòng sáu, năm, bốn, ba, hai hay
một ngày một đêm không?’ Ni-kiền đáp: ‘Không, thưa Cù-đàm’. Ta
lại hỏi, ‘Này Ni-kiền, Ta có đạt được sự tịch mặc vô ngôn ý,
nhân đó mà được hoan hỷ, khoái lạc trong một ngày một đêm
không?’ Ni-kiền đáp, ‘Được, thưa Cù-đàm’. Ta hỏi, ‘Thế Ta có
được hoan hỷ trong vòng hai, ba, bốn, năm, sáu, cho đến bảy
ngày bảy đêm không?’. ‘Được, thưa Cù-đàm’. Ta lại hỏi tiếp,
‘Này Ni-kiền, ý các ông nghĩ sao, ai sung sướng hơn, vua
Tần-bệ-sa-la hay là Ta?’ Ni-kiền đáp, ‘Thưa Cù-đàm, như chúng
tôi hiểu theo sự trình bày của Sa-môn Cù-đàm thì Sa-môn Cù-đàm
sung sướng hơn, vua Tần-bệ-sa-la không bằng’.
“Ma-ha-nam, vì vậy nên biết là nơi dục không có
lạc, chỉ toàn là khổ hoạn. Nếu Đa văn Thánh đệ tử không thấy
như thật, như vậy sẽ bị bao phủ bởi dục, bị quấn chặt bởi pháp
ác bất thiện, nên không đạt được an lạc của xả và vô thượng
tịch tĩnh. Ma-ha-nam, như vậy Đa văn Thánh đệ tử kia nhân nơi
dục mà bị thoái chuyển.
“Ma-ha-nam, Ta biết là nơi dục không có lạc,
chỉ toàn là vô lượng khổ hoạn. Ta biết đúng như thật nên không
bị dục ngăn che, cũng không bị quấn chặt bởi pháp ác bất
thiện. Vì vậy đạt được an lạc của xả và vô thượng tịch tĩnh.
“Ma-ha-nam, vì vậy Ta không nhân nơi dục mà bị
thoái chuyển.
Phật thuyết như vậy. Thích Ma-ha-nam và các
Tỳ-kheo nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
M.14 Cūa-dukkhakkhandha-sutta. Hán, biệt dịch, No.55.
-
[02] Xem các kinh 12,
180, 191. Pāli: sakkesu viharati kapilavatthusmi nigrodhārāme.
-
[03] Thích Ma-ha-nam.
Pāli: Sakka Mahānāma, con trai của Amitodana, anh em chú bác
với Phật, chứ không phải là một trong năm vị đệ tử đầu tiên
của Phật.
-
[04] Nhiễm, nhuế, si
tâm uế. Pāli: lobho, doso, moho citassa upakkileso, tham, sân,
si là ô nhiễm của tâm.
-
[05] Đoạn này như
kinh 99 trên, xem các cht. ở đó.
-
[06]
Xem cht.10, Kinh 99.
-
[07]
Xem cht.11, Kinh 99.
-
[08] Đắc xả lạc.
-
[09] Bệ-đa-la sơn
Tiên nhân Thất diệp ốc. Có lẽ là hang Sattapaiguhā, dưới chân
núi Vebhāra, địa điểm này khác với bản Pāli là núi Gijjhakūa.
cả hai đều ở trong số năm ngọn núi quanh Rājagahā. No.54:
Thiết-đề-ban-lãm-cù-hà, có thể coi như dịch âm tương đương với
Sattapaiguhā. Bản Pāli: ... viharāmi gijjhakūe pabbate...
sabahulā nigahā isigilipasse kāasilāya, Ta trú trên núi
Gijjhakūa (Linh thứu); có nhiều người Nigaha sống trong hang
Hắc thạch, sườn núi Tiên nhân. Bệ-đa-la sơn, Tiên nhân Thất
diệp khốt.
-
[10]Quảng sơn, có lẽ
là Vepulla, cao nhất trong năm ngọn núi quanh Rājagahā, địa
điểm này cũng khác trong bản Pāli: họ ở trong hang Kaasilā
trên sườn Isigili, No.54: Đọa-phu-lu, có thể coi như dịch âm
tương đương Vepulla.
-
[11]Tần-bệ-sa-la.
Pāli: Bimbisāra, vua nướùc Magadha (Ma-kiệt-đà)