- 09. PHẨM NHÂN
-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Nếu Tỳ-kheo muốn được tăng thượng tâm[02],
cần phải thường xuyên suy niệm năm tướng. Thường xuyên niệm
năm tướng thì niệm bất thiện đã sanh liền được trừ diệt. Niệm
ác diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm được tĩnh chỉ, chuyên
nhất, được định tĩnh[03].
“Năm tướng[04]
đó là những gì? Tỳ-kheo suy niệm về một tướng tương ưng thiện[05],
nếu sanh niệm bất thiện[06],
vị Tỳ-kheo đó nhân nơi tướng này lại suy niệm về một tướng
khác tương ưng với thiện, khiến niệm ác bất thiện không sanh
nữa. Khi vị Tỳ-kheo đó nhân nơi tướng này, lại suy niệm về một
tướng khác tương ưng với thiện thì niệm bất thiện đã sanh liền
bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh
chỉ, chuyên nhất, được định tĩnh.
“Cũng như người thợ mộc hay học trò thợ mộc kéo
thẳng dây mực, búng lên thân cây rồi dùng rìu bén mà đẽo cho
thẳng; Tỳ-kheo cũng vậy, nhân nơi tướng này mà suy niệm một
tướng khác tương ưng với thiện, khiến niệm ác bất thiện không
sanh nữa. Khi Tỳ-kheo đó nhân nơi tướng này, lại suy niệm một
tướng khác tương ưng với thiện, niệm bất thiện đã sanh liền bị
trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền được an trú, bên trong
tĩnh chỉ chuyên nhất, đắc định. Nếu Tỳ-kheo muốn được tăng
thượng tâm, cần phải luôn luôn suy niệm tướng thứ nhất này. Do
suy niệm tướng này, niệm bất thiện đã sanh liền được trừ diệt.
Niệm ác diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên
nhất, được định tĩnh.
“Lại nữa, Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng,
tương ưng với thiện, nếu sanh niệm bất thiện, Tỳ-kheo đó quán
rằng: “Suy niệm ác này có tai họa[07],
suy niệm này là bất thiện, suy niệm này là ám, suy niệm này bị
người trí ghét, suy niệm này nếu đầy đủ thì không thể chứng
đắc trí thông[08],
không chứng đắc giác đạo, không chứng đắc Niết-bàn, vì nó
khiến sanh niệm ác bất thiện’. Vị Tỳ-kheo đó quán sự ác như
vậy, niệm bất thiện sanh khởi liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt
rồi liền tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc
định.
“Như có người thiếu niên đẹp trai, khả ái, tắm
gội sạch sẽ, mặc y phục đẹp đẽ, lấy hương xoa khắp thân, cạo
sửa râu tóc khiến rất tinh khiết. Nếu lấy xác rắn, xác chó,
hoặc xác người đã thâm xanh, sình chướng, thối rữa, chảy nước
dơ, đeo tròng vào cổ người ấy, người ấy liền ghét sự dơ bẩn
nên không hỷ, không lạc. Tỳ-kheo cũng vậy, Tỳ-kheo quán rằng
‘Niệm ác này có tai họa, niệm này không thiện, niệm này là ác,
niệm này người trí ghét. Nếu đầy đủ niệm này thì không thể
chứng đắc trí thông, không chứng đắc giác đạo, không chứng đắc
Niết-bàn vì nó khiến sanh niệm ác bất thiện’. Tỳ-kheo đã quán
sự ác như vậy, niệm bất thiện đã sanh liền trừ diệt. Niệm ác
diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất,
đắc định. Nếu Tỳ-kheo muốn được tăng thượng tâm, cần phải luôn
luôn niệm tướng thứ hai này. Khi niệm về tướng này thì niệm
bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm
thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
“Lại nữa, Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng
tương ưng với thiện mà sanh niệm bất thiện, và khi quán niệm
ác có tai họa mà lại sanh niệm bất thiện nữa, Tỳ-kheo đó không
nên suy niệm về niệm này, vì nó khiến sanh niệm ác bất thiện.
Tỳ-kheo đó không suy niệm về niệm này nữa thì niệm bất thiện
đã sanh liền được trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm thường an
trụ, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
“Như người có mắt, cảnh sắc nằm trong ánh sáng
nhưng không muốn nhìn. Người đó hoặc nhắm mắt, hoặc lánh thân
đi, ý các ngươi nghĩ sao, cảnh sắc nằm trong ánh sáng, người
đó có thể cảm nhận được tướng dạng của sắc không?”
Đáp rằng:
“Thưa không.”
“Tỳ-kheo cũng vậy, không nên suy niệm về niệm
này, vì nó khiến sanh niệm ác bất thiện. Khi vị Tỳ-kheo đó
không suy niệm về niệm này nữa, niệm bất thiện đã sanh liền bị
trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh
chỉ, chuyên nhất, đắc định. Nếu Tỳ-kheo muốn được tăng thượng
tâm, cần phải luôn luôn suy niệm tướng thứ ba này. Suy niệm về
tướng này thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác
diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất,
đắc định.
“Lại nữa, Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng
tương ưng với thiện mà sanh niệm bất thiện, khi quán niệm ác
có tai họa cũng sanh niệm bất thiện, và trong khi không suy
niệm về niệm đó nữa cũng lại sanh niệm bất thiện; vị Tỳ-kheo
đó vì niệm này, phải dùng hành tướng của tư duy để giảm dần
niệm ấy[09],
khiến không sanh niệm ác bất thiện. Khi đối với niệm này,
Tỳ-kheo đó phải dùng hành tướng tư duy để giảm dần niệm ấy thì
niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm
thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
“Như có người đi đường, bước nhanh trên đường,
người đó nghĩ rằng: ‘Tại sao ta đi nhanh? Giờ ta hãy đi chậm
được chăng?’ Người đó liền đi chậm lại, nhưng rồi lại nghĩ:
‘Tại sao ta đi chậm mà chẳng đứng lại?’ Người đó liền đứng
lại, nhưng rồi lại nghĩ: ‘Tại sao ta lại đứng? Ta ngồi xuống
được chăng?’ Người đó liền ngồi xuống, nhưng rồi lại nghĩ:
‘Tại sao ta lại ngồi? Ta nằm xuống được chăng?’ Người đó liền
nằm xuống. Như vậy là người đó đang thực hành pháp đình chỉ
dần dần hành tướng thô của thân. Nên biết, Tỳ-kheo cũng giống
như thế. Đối với niệm này, Tỳ-kheo đó phải dùng hành tướng của
tư duy mà giảm dần niệm ấy để không sanh niệm ác bất thiện.
Khi đối với niệm này, Tỳ-kheo đó phải dùng hành tướng của tư
duy, giảm dần niệm ấy, thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ
diệt, niệm ác diệt rồi, tâm liền được an trú, bên trong tĩnh
chỉ, chuyên nhất, đắc định. Nếu Tỳ-kheo muốn được tăng thượng
tâm, cần phải suy niệm luôn luôn tướng thứ tư này. Suy niệm
tướng này thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác
diệt rồi, tâm liền được an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất,
đắc định.
“Lại nữa, Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng,
tương ưng với thiện mà sanh niệm bất thiện, khi quán niệm ác
có tai họa mà cũng sanh niệm bất thiện, khi không suy niệm về
niệm ác cũng sanh tiếp niệm bất thiện, và khi phải dùng hành
tướng của tư duy để giảm dần niệm ấy, cũng lại sanh tiếp về
niệm bất thiện nữa; Tỳ-kheo đó nên quán như vầy. Tỳ-kheo, vì
nhân niệm này mà sanh niệm bất thiện, Tỳ-kheo đó liền ngậm
khít răng lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm để tu tâm, giữ
chặt tâm và hàng phục tâm[10],
khiến không niệm ác bất thiện.
“Khi vị Tỳ-kheo đó dùng tâm tu tâm, giữ chặt
tâm và hàng phục tâm thì niệm bất thiện đã sanh liền được trừ
diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền được an trú, nội tâm tĩnh
chỉ, chuyên nhất, đắc định. Như hai lực sĩ bắt một người yếu,
nắm vững và hàng phục nó, Tỳ-kheo cũng vậy, răng ngậm khít
lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và
hàng phục tâm để không sanh niệm ác bất thiện. Khi vị Tỳ-kheo
đó dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm thì niệm bất
thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền
được an trú, bên trong tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định. Nếu
Tỳ-kheo muốn được tăng tượng tâm, cần phải luôn luôn suy niệm
tướng thứ năm này. Suy niệm tướng này thì niệm bất thiện đã
sanh liền được trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền được an
trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
“Nếu Tỳ-kheo muốn được tăng thượng tâm thì cần
phải luôn luôn suy niệm năm tướng này. Luôn luôn suy niệm năm
tướng thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác
diệt rồi, tâm liền được an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất,
đắc định.
“Nếu Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng tương
ưng với thiện mà không sanh niệm ác, khi quán niệm ác có tai
họa cũng không sanh niệm ác, khi không suy niệm về niệm đó
cũng không sanh niệm ác, khi dùng hành tướng của tư duy để
giảm dần niệm ấy cũng không sanh niệm ác, và khi dùng tâm tu
tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm cũng lại không sanh niệm ác
nữa, thì liền được tự tại, muốn suy niệm thì suy niệm, không
suy niệm thì không suy niệm.
Nếu Tỳ-kheo muốn niệm thì niệm, không muốn niệm
thì không niệm, thì đó là Tỳ-kheo đã được tùy ý trong cái suy
niệm, tự tại trong các đạo tích suy niệm[11].
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo ấy sau khi
nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M. 20. Vitakkasanthānasutta.
-
[02] Tăng thượng tâm.
Pāli: adhicittam.
-
[03] Pāli: ajjhattam
eva cittam santihati sannisīdati ekodhi hoti samādhiyati.
-
[04] Ngũ tướng. Pāli:
pañca nimittāni.
-
[05] Pāli: ya nimitta
manasākaroto, khi tác ý nơi một tướng (nào đó).
-
[06] Pāli:
upapajjanti pāpakā akusalā vitakkā chandūpasamhitāpi..., sanh
khởi những ác bất thiện tầm liên hệ đến dục...
-
[07] Pāli: tesa
vitakkāna ādīnavo uparikkhitabbo: itipime vitakkā akusalā...
sāvajjā... Dukkhavipākā ti, cần quán sát sự tai hại của các
tầm nay: tầm này là bất thiện, là bị chỉ trích, là có kết quả
khổ.
-
[08] Thông, chỉ thắng
trí, tức lục thông.
-
[09] Dĩ tư hành tiệm
giảm kỳ niệm. Pāli: tesam vitakkānaṃ vitakkasaṅkhāra-saṇṭhānaṃ
manāsikaroto, tác ý đến tư thái và tác động của tầm đối với
các tầm ấy.
-
[10] Pāli: cetasā
citta abhiniggahaitabba abhinippìletabba abhisantāpe-tabba,
bằng tâm mà khống chế tâm, trấn áp tâm, khuất phục tâm.
-
[11] Tự tại chư niệm
tích. Pāli: bhikkhu vasī vitakkapariyāyapathesu, Tỳ-kheo ấy là
người tự chủ trên những con đường dẫn đến pháp chiêm nghiệm
(tầm pháp môn đạo).