- 09. PHẨM NHÂN
-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở
Kiếm-ma-sắt-đàm. một đô ấp của Câu-lâu[02].
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Ở đây[03]
có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, Sa-môn thứ tư. Ngoài đây
ra[04]
không có Sa-môn, Phạm chí; Dị học hoàn toàn không có[05]
Sa-môn, Phạm chí. Trong bất cứ chúng hội, các ngươi hãy chân
chánh rống tiếng rống như sư tử vậy.
“Này các Tỳ-kheo, nếu có người Dị học đến hỏi
các ngươi, ‘Này chư Hiền, các ông có hành gì, lực gì, trí gì
mà các ông nói như vầy: ‘Ở đây có Sa-môn thứ nhất, thứ hai,
thứ ba, Sa-môn thứ tư. Ngoài đây ra không có Sa-môn, Phạm chí;
Dị học hoàn toàn không có Sa-môn, Phạm chí’. Trong bất cứ
chúng hội các ông đều chân chánh rống tiếng rống sư tử như
vậy?”.
“Này các Tỳ-kheo, các ngươi nên trả lời Dị học
ấy như vầy: ‘Này chư Hiền, Đức Thế Tôn của tôi là bậc có trí,
có kiến; là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, thuyết
giảng bốn pháp. Nhân nơi bốn pháp này mà chúng tôi nói như
vầy: ‘Ở đây có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, Sa-môn thứ
tư. Ngoài đây ra không có Sa-môn, Phạm chí; Dị học hoàn toàn
không có Sa-môn, Phạm chí. Trong bất cứ chúng hội mà chúng tôi
đều chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.’
“Bốn pháp đó là những gì? Này chư Hiền, chúng
tôi tin tưởng Đấng Tôn Sư, tin Pháp, tin sự thành mãn của giới
đức[06],
đồng đạo có ái kính, có phụng sự chân thành[07].
“Này chư Hiền, Đức Thế Tôn của chúng tôi là bậc
có trí, có kiến, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác,
thuyết giảng bốn pháp này. Nhân bốn pháp này mà chúng tôi nói
như vầy: ‘Ở đây có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, Sa-môn
thứ tư. Ngoài ra không có Sa-môn, Phạm chí; Dị học hoàn toàn
không có Sa-môn, Phạm chí. Trong bất cứ chúng hội chúng tôi
đều chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.’
“Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học cũng có thể lại
nói: ‘Này chư Hiền, chúng tôi cũng tin đấng Tôn sư, tức Tôn sư
của chúng tôi; tin pháp, tức pháp của chúng tôi; tin sự thành
mãn của giới đức, tức giới của chúng tôi; cũng ái kính bạn
đồng đạo, phụng sự chân thành, là bạn đồng đạo xuất gia và tại
gia của chúng tôi. Này chư Hiền, giữa hai lời nói này, của
Sa-môn Cù-đàm và của chúng tôi, có gì hơn chăng? Có ý gì
chăng? Có sai biệt gì chăng?’ Thì này các Tỳ-kheo, các ngươi
nên hỏi Dị học như vầy: ‘Này chư Hiền, cứu cánh là một hay cứu
cánh là nhiều?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy:
‘Này chư Hiền, cứu cánh chỉ có một, cứu cánh không có nhiều’.
Thì này các Tỳ-kheo, các ông hỏi tiếp Dị học: ‘Này chư Hiền,
người có dục mà được cứu cánh, hay người không có dục mới được
cứu cánh?’Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy, ‘Này
chư Hiền, người không có dục mới được cứu cánh, không phải
người có dục mà được cứu cánh’.
Thì này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi tiếp Dị
học, ‘Này chư Hiền, người có nhuế mà được cứu cánh, hay người
không có nhuế mà được cứu cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học
trả lời như vầy: ‘Này chư Hiền, người không có nhuế mà được
cứu cánh, không phải người có nhuế mà được cứu cánh’. Này các
Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi tiếp Dị học: ‘Này chư Hiền, người
có si mà được cứu cánh hay người không có si mà được cứu
cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy: ‘Này chư
Hiền, người không có si mà được cứu cánh, không phải người có
si mà được cứu cánh’. Thì này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi
tiếp Dị học: ‘Này chư Hiền, người có ái, có thủ[08]
mà được cứu cánh, hay người không có ái, không có thủ mà được
cứu cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy: ‘Này
chư Hiền, người không có ái, không có thủ mà được cứu cánh,
không phải người có ái, có thủ mà được cứu cánh’. Thì này các
Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi tiếp Dị học: ‘Này chư Hiền, người
không có tuệ[09],
không có thuyết tuệ[10]
mà được cứu cánh, hay người có tuệ, có thuyết giảng tuệ mà
được cứu cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy:
‘Này chư Hiền, người có tuệ, có thuyết tuệ mà được cứu cánh;
không phải người không có tuệ, không thuyết tuệ mà được cứu
cánh’. Thì này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi tiếp Dị học:
‘Này chư Hiền, người có tắng, có tránh[11]
mà được cứu cánh, hay người không có tắng có tránh mà được cứu
cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy: ‘Này chư
Hiền, người không có tắng, không có tránh mà được cứu cánh;
không phải người có tắng có tránh mà được cứu cánh’. Thì này
các Tỳ-kheo, các ngươi hãy nói với Dị học như vầy: ‘Này chư
Hiền, như vậy là các ông nói có một cứu cánh, không phải nhiều
cứu cánh.
“Người không có dục mà được cứu cánh, không
phải người có dục mà được cứu cánh. Người không có nhuế mà
được cứu cánh, không phải người có nhuế mà được cứu cánh.
Người không có si mà được cứu cánh, không phải người có si mà
được cứu cánh. Người không có ái, không có thủ được cứu cánh,
không phải người có ái, có thủ mà được cứu cánh. Người có tuệ,
có thuyết tuệ mà được cứu cánh; không phải người không có tuệ,
không có thuyết tuệ mà được cứu cánh. Người không có tắng,
không có tránh mà được cứu cánh; không phải người có tắng, có
tránh mà được cứu cánh.
“Nếu có Sa-môn, Phạm chí nương nơi vô lượng
kiến, vị đó nhất định nương nơi hai kiến, hữu kiến và vô kiến[12].
Nếu nương nơi hữu kiến, vị đó liền bám dính hữu kiến, nương
cậy nơi hữu kiến, y trụ nơi hữu kiến và tắng, tránh với vô
kiến[13].
Nếu nương nơi vô kiến, vị đó liền bám dính vô kiến, nương cậy
nơi vô kiến mà tắng tránh với hữu kiến.
“Nếu có Sa-môn, Phạm chí không biết một cách
như thật về nhân, về tập, về diệt, về tận, vị ngọt, tai hoạn
và sự xuất yếu[14],
vị đó nhất định có dục, có nhuế, có si, có ái, có thủ, không
có tuệ, không có thuyết tuệ, có tắng, có tránh; vị đó không
lìa khỏi sanh, già, bệnh, chết, cũng không thể thoát khỏi sự
buồn rầu, kêu khóc, lo khổ, áo não, không chứng đắc khổ biên.
“Nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với những loại
kiến này mà biết một cách như thật về tập, về diệt, về tận, vị
ngọt, sự tai hoạn và sự xuất yếu, vị đó nhất định không có
dục, không có nhuế, không có si, không có ái, không có thủ, có
tuệ, có thuyết tuệ, không có tắng, không có tránh, vị đó lìa
khỏi sanh, già, bệnh, chết, cũng có thể thoát khỏi sự buồn
rầu, kêu khóc, lo khổ, áo não, vượt khỏi bờ khổ.
“Hoặc có Sa-môn, Phạm chí chủ trương đoạn trừ
thủ, nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thủ; chỉ chủ
trương đoạn trừ dục thủ mà không chủ trương đoạn trừ giới thủ,
kiến thủ, ngã thủ[15].
Vì sao vậy? Vì Sa-môn, Phạm chí đó không biết đúng như thật về
ba xứ[16].
Do đó, vị ấy chủ trương đoạn trừ thủ, nhưng không chủ trương
đoạn trừ tất cả thủ.
“Lại có Sa-môn, Phạm chí chủ trương đoạn trừ
thủ, nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thủ; chỉ chủ
trương đoạn trừ dục thủ, giới thủ, mà không chủ trương đoạn
trừ kiến thủ, ngã thủ. Vì sao vậy? Vì Sa-môn, Phạm chí đó
không biết đúng như thật về hai xứ. Do đó, vị ấy tuy đoạn trừ
thủ nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thủ.
“Lại có Sa-môn, Phạm chí chủ trương đoạn trừ
thủ nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thủ; chỉ chủ trương
đoạn trừ dục thủ, giới thủ, kiến thủ mà không chủ trương đoạn
trừ ngã thủ. Vì sao vậy? Vị Sa-môn, Phạm chí đó không biết
đúng như thật về một xứ. Do đó vị ấy chủ trương đoạn trừ thủ
nhưng không chủ trương đoạn trừ tất cả thủ.
“Đối với pháp luật như vậy, người nào tin đấng
Tôn sư, người đó không phải là chân chánh, không phải là thứ
nhất. Nếu tin pháp, cũng không phải là chân chánh, không phải
là hạng thứ nhất. Nếu ái kính bạn đồng đạo, chân thành phụng
sự, cũng không phải chân chánh, không phải hạng thứ nhất.
“Nếu có Đức Như Lai ra đời, là Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, gọi là Phật, là Đấng
Chúng Hựu, Ngài cũng chủ trương đoạn trừ thủ. Ngay trong đời
này, Ngài chủ trương đoạn trừ tất cả thủ, thi hành đoạn trừ
dục thủ, giới thủ, kiến thủ, ngã thủ. Bốn thủ này nhân nơi
đâu? Tập khởi do đâu? Phát sinh từ đâu? Lấy gì làm gốc? Nếu
thọ này nhân nơi vô minh, phát sanh từ vô minh, lấy vô minh
làm gốc, nếu có Tỳ-kheo vô minh đã diệt tận, minh tuệ đã phát
sanh, vị đó từ đây không còn trở lại chấp thủ dục, chấp thủ
giới, chấp thủ kiến và chấp thủ ngã nữa. Vị đó đã không chấp
thủ rồi thì không còn lo sợ. Đã không lo sợ nên đoạn trừ nhân
duyên, chắc chắn chứng đắc Niết-bàn và biết đúng như thật rằng
‘Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh’.
“Trong Pháp Luật chân chánh như vậy, nếu người
nào tin Đấng Tôn Sư thì đó là người chân chánh, là người bậc
nhất; nếu tin Pháp thì đó là người chân chánh, là người bậc
nhất; nếu tin sự thành mãn của giới đức, đồng đạo có ái kính,
thì đó là người chân chánh, là người bậc nhất; nếu đồng đạo có
ái kính, có phụng sự chân thành thì đó là người chân chánh, là
người bậc nhất.
“Này chư Hiền, chúng tôi có hành như vậy, có
lực như vậy, có trí như vậy. Nhân nơi đó mà chúng tôi nói như
vầy, ‘Ở đây có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, Sa-môn thứ
tư. Ngoài đây ra không có Sa-môn, Phạm chí; Dị học hoàn toàn
không có Sa-môn, Phạm chí. Do đó, bất cứ trong chúng hội mà
chúng tôi chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy’.”
Phật thuyết giảng như vậy, các Tỳ-kheo ấy sau
khi Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M.11 Cūla-Sīhanāda-suttaṃ.
-
[02] Xem chú thích
kinh 97 trên. Bản Pāli nói Phật ở tại Sāvatthi.
-
[03] Thử trung, tức
chỉ trong Chánh pháp của Phật. Pāli: idheva, chỉ ở đây.
-
[04] Thử ngoại, tức
ngoài Phật pháp. Pāli: parappavāda, ngoại đạo.
-
[05] Dị học không vô.
Pāli: suññā parappavādā, các học thuyết khác trống rỗng, không
có...
-
[06] Tín giới đức cụ
túc. Pāli: atthi sīlesu paripūrakāritā, tin có những sự thành
mãn trong các giới đức.
-
[07] Ái kính đồng
đạo, cung khác phụng sự. Pāli: sahadhammikā kho pana piyā
manāpā, những người cùng theo một giáo pháp thương yêu nhau,
mến mộ nhau.
-
[08] Ái và thọ, tức
ái và thủ trong mười hai chi duyên khởi. Pāli: sa-tahā,
sa-upādāna.
-
[09] Tuệ; Pāli:
viddasu, có hiểu biết, hiền minh, thức giả.
-
[10] Thuyết tuệ, chưa
rõ nghĩa.
-
[11] Tắng và tránh;
ghét và gây gỗ; hay ác cảm và hay gây sự. Pāli:
anuruddha-paṭiviruddha (thuận tùng và phản đối)?
-
[12] Hữu kiến, vô
kiến. Pāli: bhava-dihi, vibhava-dihi.
-
[13] Tắng tránh vô
kiến. Pāli: vibhavadihiyā te paiviruddhā, chúng phản đối quan
điểm phi hữu.
-
[14] Bảy khía cạnh
của vấn đề, Hán: nhân, tập, diệt, tận, vị, hoạn, xuất yếu.
Pāli, chỉ kể sáu: sanudaya (tập khởi), atthagama (hoại diệt),
assāda (vị ngọt), ādīnava (tai hại), nissaraa (sự thoát ly).
-
[15] Bốn thọ, tức bốn
thủ: dục, giới, kiến và ngã. Pāli: cattāri upādāni, kāmupādāna
(dục thủ), dihupādāna(kiến thủ), sīlabbatupādāna (giới cấm
thủ), attavādupādāna (ngã ngữ thủ).
-
[16] Ba xứ, đây chỉ
ba trường hợp về giới, kiến và ngã. Tức trừ dục thủ.