- 09. PHẨM NHÂN
-
-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá,
trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa.
Bấy giờ có một Cư sĩ tên là Thật Ý[02],
vào buổi sáng sớm, ông rời thành Vương xá, muốn đến chỗ Đức
Phật để cúng dường lễ sự. Lúc bấy giờ Cư sĩ Thật Ý nghĩ rằng:
“Hãy gác qua chuyện đi đến chỗ Phật. Thế Tôn và các Tỳ-kheo có
thể vẫn còn đang thiền định. Ta hãy vào rừng Ưu-đàm-bà-la, đến
Dị học viên[03]“.
Bấy giờ Cư sĩ Thật Ý liền đi vào rừng
Ưu-đàm-bà-la, đến Dị học viên. Tại đây có một Dị học tên là Vô
Nhuế[04],
được tôn làm tông chủ của dị học, được mọi người kính trọng,
quy phục, được năm trăm Dị học tôn sùng. Giữa một đám đông ồn
ào, ông đang cao giọng luận bàn đủ mọi vấn đề chào xáo[05],
như bàn chuyện vua chúa, bàn chuyện trộm cướp, bàn chuyện đấu
tranh, bàn chuyện ăn uống, bàn chuyện y phục, bàn chuyện phụ
nữ, bàn chuyện đồng nữ, bàn chuyện dâm nữ, bàn chuyện thế tục,
bàn chuyện phi đạo, bàn chuyện sông biển, bàn chuyện quốc gia,
tất cả những vấn đề cũng lại chào xáo như thế đều tập họp tại
chỗ ngồi của ông.
Lúc bấy giờ, Dị học Vô Nhuế thấy Cư sĩ Thật Ý
từ xa tiến đến, liền ra lệnh bảo hội chúng của mình hãy im
lặng:
“Này chư Hiền, các ông chớ nói nữa, hãy vui vẻ
im lặng! Mỗi người hãy tự mình thu liễm! Vì sao vậy? Vì có Cư
sĩ Thật Ý sắp đến đây. Ông ấy là đệ tử của Sa-môn Cù-đàm.
Trong số Cư sĩ tại gia ở trong thành Vương xá này, nếu có đệ
tử của Sa-môn Cù-đàm mà danh đức vang dội, được mọi người kính
trọng thì ông ấy là người thứ nhất. Ông ấy không ưa sự huyên
náo, thích im lặng, tự mình thu liễm. Nếu ông ấy biết hội
chúng đây im lặng có thể sẽ hay đến”.
Bấy giờ Dị học Vô Nhuế bảo hội chúng im lặng,
rồi tự mình cũng im lặng. Lúc bấy giờ Cư sĩ Thật Ý đi đến chỗ
Dị học Vô Nhuế, cùng nhau chào hỏi, rồi ngồi xuống một bên.
Cư sĩ Thật Ý nói:
“Này Vô Nhuế, Đức Phật Thế Tôn của tôi, hoặc ở
tại rừng vắng, sơn lâm, dưới gốc cây hay sống trên sườn núi
cao, những nơi vắng vẻ không có tiếng động, xa vắng, không có
sự dữ, không có người đời và tùy thuận mà thiền tọa. Đó là so
sánh chỗ Đức Thế Tôn với ở đây; Ngài sống ở tại rừng vắng, sơn
lâm, dưới gốc cây, hay sống trên sườn núi cao, những nơi vắng
lặng không có tiếng động, xa vắng, không có sự dữ, không có
người đời, tùy thuận mà thiền tọa. Ngài ở nơi xa vắng, thường
thích thiền tọa, an ổn, khoái lạc. Đức Phật Thế Tôn chưa hề
một ngày một đêm tụ tập, hội họp cùng mọi người như ông và
quyến thuộc của ông hôm nay”.
Bấy giờ Dị học Vô Nhuế liền nói:
“Thôi, thôi! Cư cĩ, ông do đâu mà biết được?
Cái tuệ giải thoát trống rỗng[06]
của Sa-môn Cù-đàm, cái đó không đủ để nói, hoặc tương ưng hay
không tương ưng, hoặc tùy thuận hay không tùy thuận. Sa-môn
Cù-đàm đi từ biên này đến biên kia[07],
ưa thích từ biên này đến biên kia, sốngï từ biên này đến biên
kia. Như con trâu đui ăn cỏ nơi biên địa, nó đi từ biên này
đến biên kia, ưa thích từ biên này đến biên kia, sốngï từ biên
này đến biên kia. Sa-môn Cù-đàm cũng giống như vậy.
“Này Cư sĩ, nếu Sa-môn Cù-đàm đến nơi hội chúng
này, chỉ bằng một vấn đề, tôi cũng đủ hủy diệt ông ấy như lăn
cái bình không, và cũng sẽ nói cái ví dụ con trâu đui cho ông
ấy nghe”.
Rồi Dị học Vô Nhuế bảo với đồ chúng của mình:
“Này chư Hiền, giả sử Sa-môn Cù-đàm đến nơi hội
chúng này, nếu như có đến thật, thì các ông chớ có đứng dậy
chắp tay nghinh đón, cũng chớ có mời ngồi. Hãy để riêng một
chỗ cho ông ấy ngồi thôi. Khi ông ấy đến đây rồi thì hãy nói
như vầy, ‘Này Cù-đàm! Có chỗ ngồi đây, muốn ngồi tùy ý’.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn đang thiền tọa, bằng thiên
nhĩ thanh tịnh, nghe xa hơn người, nghe rõ cuộc thảo luận như
vậy giữa Cư sĩ Thật Ý và Dị học Vô Nhuế, vào lúc xế, Ngài liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào rừng Ưu-đàm-bà-la, đến Dị học
viên. Thấy Đức Thế Tôn đang từ xa đi đến, Dị học Vô Nhuế liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, chắp tay hướng
Phật mà tán thán rằng:
“Kính chào Cù-đàm, đã lâu ngày không đến đây.
Xin mời ngồi chỗ này”.
Khi ấy Đức Thế Tôn thầm nghĩ: “Người ngu si này
tự phản lại điều mình đặt ra”. Biết như vậy, Đức Thế Tôn liền
ngồi trên giường đó. Dị học Vô Nhuế sau khi chào hỏi Đức Thế
Tôn, liền ngồi xuống một bên.
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Vô Nhuế! Ông và Cư sĩ Thật Ý vừa bàn luận
việc gì thế? Vì lý do gì mà nhóm họp nơi đây?”
Dị học Vô Nhuế trả lời:
“Thưa Cù-đàm, chúng tôi nghĩ như vầy, ‘Sa-môn
Cù-đàm có những pháp gì dạy bảo cho đệ tử, các đệ tử sau khi
vâng lãnh sự dạy bảo rồi liền được an ổn, trọn đời tịnh tu
phạm hạnh và đem dạy cho người khác nữa?’ Thưa Cù-đàm, tôi và
Cư sĩ Thật Ý vừa bàn luận việc như vậy. Vì lý do đó mà chúng
tôi nhóm họp nơi đây”.
Cư sĩ Thật Ý nghe ông ta nói vậy liền nghĩ: ‘Lạ
thay, Dị học Vô Nhuế lại nói láo. Vì sao vậy? Vì ở trước Đức
Thế Tôn mà dám lừa dối Ngài’.
Đức Thế Tôn biết vậy, Ngài liền nói:
“Này Vô Nhuế, Pháp của Ta rất sâu sắc, rất kỳ
diệu, rất hy hữu, khó hiểu, khó biết, khó thấy, khó chứng đắc,
mà Ta dạy bảo cho đệ tử và đệ tử sau khi vâng lãnh sự dạy bảo
rồi liền được an ổn, trọn đời tịnh tu phạm hạnh và đem dạy lại
cho người khác nữa. Này Vô Nhuế, hãy hỏi Ta về hạnh bất liễu
tắng ố[08]
mà Sư tông của ông chấp nhận, Ta cũng sẽ giải đáp cho ông thỏa
mãn”.
Lúc đó các chúng Dị học ồn ào đó cùng nhau lớn
tiếng nói rằng:
“Sa-môn Cù-đàm thật là kỳ diệu! Thật là hy hữu!
Có như ý túc, có uy đức lớn, có phước hựu lớn, có oai thần
lớn. Vì sao vậy? Ngài bỏ qua tông chỉ của mình mà lại đề nghị
thảo luận về tông chỉ của người”.
Lúc bấy giờ Dị học Vô Nhuế ra lệnh bảo hôïi
chúng của mình im lặng rồi hỏi:
“Thưa Cù-đàm! Hạnh bất liễu khả tắng, thế nào
là được hoàn toàn? Thế nào là không được hoàn toàn?
Bấy giờ Đức Thế Tôn trả lời:
“Này Vô Nhuế! Hoặc có Sa-môn, Phạm chí lõa
hình, không y phục, hoặc dùng tay làm y phục, hoặc lấy lá làm
y phục, hoặc lấy hạt châu làm y phục; hoặc không múc nước bằng
bình, hoặc không múc nước bằng gáo; không ăn đồ ăn xốc xỉa
bằng dao gậy, không ăn đồ ăn lừa dối, không tự mình đến, không
sai người đi, không làm khách được mời[09],
không làm khách được chào đón[10],
không làm khách được lưu[11],
không ăn từ giữa hai người đang ăn, không ăn tại nhà có thai[12],
không ăn từ nhà có nuôi chó, không ăn từ nhà có lằng xanh bay
đến; không ăn cá, không ăn thịt, không uống rượu, không uống
nước dấm[13],
hoặc không uống gì cả, học tập hạnh không uống; hoặc ăn một
miếng, cho một miếng là đủ[14],
hoặc ăn hai, ba, bốn, cho đến bảy miếng, và cho bảy miếng là
đủ, hoặc ăn bởi một lần nhận được[15],
và cho đến một lần nhận được là đủ, hoặc ăn bởi hai, ba bốn
cho đến bảy lần nhận được và cho bảy lần nhận được là đủ, hoặc
ăn ngày một lần và cho một lần là đủ, hoặc hai, ba, bốn, năm,
sáu, bảy ngày, nửa tháng, hay một tháng, ăn một lần và cho một
lần là đủ; hoặc ăn cỏ[16],
hoặc ăn lúa cỏ[17],
hoặc ăn nếp tuế, hoặc ăn cám, hoặc ăn gạo đầu-đầu-la[18],
hoặc ăn đồ ăn thô; hoặc đến chỗ vô sự[19],
y nơi vô sự; hoặc ăn rễ, hoặc ăn trái, hoặc ăn quả tự rụng;
hoặc mặc áo khâu đủ thứ vải[20],
hoặc mặc áo lông, hoặc mặc áo vải đầu-xá[21],
hoặc mặc áo vải đầu-xá bằng lông, hoặc mặc bằng da nguyên,
hoặc mặc da có xoi lỗ, hoặc mặc da toàn xoi lỗ; hoặc để tóc
xõa, hoặc để tóc bện, hoặc để tóc vừa xõa vừa bện, hoặc chỉ
cạo tóc, hoặc chỉ cạo râu, hoặc cạo cả râu tóc, hoặc nhổ tóc,
hoặc nhổ râu, hoặc nhổ cả râu tóc, hoặc chỉ đứng thẳng không
hề ngồi, hoặc đi chồm hổm, hoặc nằm gai, lấy gai làm giường;
hoặc nằm cỏ[22],
lấy cỏ làm giường; hoặc thờ nước, ngày đêm lấy tay vọc; hoặc
thờ lửa, ngày đêm đốt lên; hoặc thờ mặt trời, mặt trăng, thờ
đấng Tôn hựu Đại đức, chắp tay hướng về kia. Những sự như vậy
thọ khổ vô lượng, học hạnh nóng bức[23].
“Này Vô Nhuế, ý ông nghĩ sao, hạnh bất liễu khả
tắng như vậy là hoàn toàn hay không hoàn toàn?”
Dị học Vô Nhuế đáp:
“Thưa Cù-đàm, như vậy hạnh bất liễu khả tắng là
hoàn toàn, không phải là không hoàn toàn”.
Đức Thế Tôn lại nói:
“Này Vô Nhuế, Ta sẽ chỉ cho ông thấy cái hạnh
bất liễu khả tắng hoàn toàn đó bị vô lượng cấu uế làm ô
nhiễm”.
Dị học Vô Nhuế hỏi:
“Thưa Cù-đàm, câu nói, ‘Ta sẽ chỉ cho ông thấy
cái hạnh bất liễu khả tắng hoàn toàn đó bị vô lượng cấu uế làm
ô nhiễm’, nghĩa là thế nào?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Vô Nhuế, hoặc có người chuyên hành khổ
hạnh một cách tân khổ[24].
Nhân bởi hành khổ hạnh một cách tân khổ mà có ác dục, niệm
tưởng dục. Này Vô Nhuế, nếu ai chuyên hành khổ hạnh một cách
tân khổ, rồi nhân hành khổ hạnh ấy mà có ác dục, niệm tưởng
dục. Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh một cách tân khổ này mà chỉ
ngước nhìn ánh mặt trời, hấp thụ khí trời. Này Vô Nhuế, nếu ai
hành khổ hạnh, rồi do chuyên hành khổ hạnh ấy nên chỉ ngước
nhìn ánh mặt trời, hấp thụ khí trời. Vô Nhuế, hành khổ hạnh
như vậy là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do chuyên hành khổ hạnh mà tự cống cao cho rằng
ta đã tu khổ hạnh, nên tâm liền bị trói buộc. Này Vô Nhuế, nếu
có người chuyên hành khổ hạnh rồi do chuyên hành khổ hạnh mà
tự cống cao cho rằng đã tự tu khổ hạnh, nên tâm liền bị trói
buộc. Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ. Do nhân hành khổ hạnh mà quý mình khinh người.
Này Vô Nhuế, nếu có ai chuyên hành khổ hạnh, rồi do chuyên
hành khổ hạnh mà quý mình khinh người. Vô Nhuế, hành khổ hạnh
như vậy là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh nên đến nhà người mà tự khen
rằng: ‘Tôi hành tân khổ; hành của tôi rất khó’. Này Vô Nhuế,
nếu có ai chuyên hành khổ hạnh một cách tân khổ, rồi do duyên
hành khổ hạnh nên đến nhà người mà tự khen rằng: ‘Tôi hành tân
khổ; hành của tôi rất khó’. Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là
cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do chuyên hành khổ hạnh một cách tân khổ nên nếu
thấy Sa-môn, Phạm chí được người kính trọng, cúng dường, lễ sự
liền sanh lòng tật đố, nói rằng ‘Sao lại kính trọng, cúng
dường, lễ sự Sa-môn, Phạm chí ấy? Hãy nên kính trọng, cúng
dường, lễ sự tôi đây. Vì sao vậy? Vì tôi hành khổ hạnh.’
Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do chuyên hành khổ hạnh một cách tân khổ nên nếu
thấy Sa-môn, Phạm chí được người kính trọng, cúng dường, lễ sự
liền sanh lòng tật đố, nói rằng ‘Sao lại kính trọng, lễ sự,
cúng dường Sa-môn, Phạm chí ấy? Hãy nên kính trọng, cúng
dường, lễ sự tôi đây. Vì sao vậy? Vì tôi hành khổ hạnh’. Vô
Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh một cách tân khổ nên nếu thấy
Sa-môn, Phạm chí được người kính trọng, cúng dường, lễ sự liền
đến mắng ngay mặt Sa-môn, Phạm chí đó, nói rằng: ‘Sao ông lại
được kính trọng, lễ sự, cúng dường? Ông là người nhiều ham
muốn, nhiều mong cầu, thường ăn năm thứ hạt, hạt sanh từ gốc
cây, hạt sanh từ thân cây, hạt sanh từ trái cây, hạt sanh từ
mắt cây và hạt sanh từ hạt. Ví như một trận mưa lớn làm tổn
hại năm thứ hạt giống, nhiễu loạn súc sanh và nhân dân,
Sa-môn, Phạm chí kia mà hay đến nhà người, cũng giống như
vậy’. Này Vô Nhuế, hoặc có ai hành khổ hạnh một cách tân khổ,
do hành khổ hạnh một cách tân khổ nên nếu thấy Sa-môn, Phạm
chí được người kính trọng, cúng dường, lễ sự liền đến mắng
ngay mặt Sa-môn, Phạm chí đó, nói rằng ‘Sao ông lại được kính
trọng, lễ sự, cúng dường? Ông là người nhiều ham muốn, nhiều
mong cầu, thường ăn năm thứ hạt sanh từ gốc cây, hạt sanh từ
thân cây, hạt sanh từ trái cây, hạt sanh từ mắt cây và hạt
sanh từ hạt. Ví như một trận mưa lớn làm tổn hại năm thứ hạt
giống, nhiễu loạn súc sanh và nhân dân, Sa-môn, Phạm chí mà
hay đến nhà người, cũng giống như vậy’. Vô Nhuế, hành khổ hạnh
như vậy là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh một cách tân khổ nên có sầu, có
si, khủng bố, khủng cụ, sống lén lút, nghi ngờ, sợ mất tiếng,
tham lam, phóng dật. Này Vô Nhuế, nếu có người hành khổ hạnh
một cách tân khổ, do hành khổ hạnh một cách tân khổ nên có
sầu, có si, khủng bố, khủng cụ, sống lén lút, nghi ngờ, sợ mất
tiếng, tham lam, phóng dật. Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là
cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc ai chuyên tu khổ hạnh một
cách tân khổ, do chuyên tu khổ hạnh nên sanh thân kiến, biên
kiến, tà kiến, kiến thủ, khó tánh[25],
không biết tiết hạn, những pháp mà Sa-môn, Phạm chí phải thông
suốt lại không thông suốt. Này Vô Nhuế, nếu có người tu khổ
hạnh, rồi do tu khổ hạnh nên sanh thân kiến, biên kiến, tà
kiến, kiến thủ, khó tánh, không biết tiết hạn, những pháp mà
Sa-môn, Phạm chí phải thông suốt lại không thông suốt. Vô
Nhuế, hành khổ hạnh như thế là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có ai hành khổ hạnh một cách
tân khổ, do hành khổ hạnh nên có sân triền, phú kết, bỏn sẻn,
ganh tị, dua siểm, dối trá, vô tàm, vô quý. Này Vô Nhuế, nếu
ai hành khổ hạnh một cách tân khổ, do hành khổ hạnh nên có sân
triền, phú kết, bỏn sẻn, ganh tị, dua siểm, dối trá, vô tàm,
vô quý. Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có ai hành khổ hạnh một cách
tân khổ, do hành khổ hạnh nên sanh ra nói dối, nói hai lưỡi,
nói thô ác, nói thêu dệt, đủ cả ác giới. Này Vô Nhuế, nếu có
ai hành khổ hạnh một cách tân khổ, do hành khổ hạnh nên sanh
ra nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói thêu dệt, đủ cả ác
giới. Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có ai hành khổ hạnh một cách
tân khổ, do hành khổ hạnh nên không có tín tâm, giải đãi,
không chánh niệm, chánh trí, có đủ ác tuệ. Này Vô Nhuế, nếu có
ai hành khổ hạnh một cách tân khổ, do hành khổ hạnh nên không
có tín tâm, giải đãi, không chánh niệm, chánh trí, có đủ ác
tuệ. Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là cấu uế.
“Này Vô Nhuế, Ta đã chỉ cho ông thấy cái hạnh
bất liễu khả tắng hoàn toàn đó bị vô lượng cấu uế làm ô nhiễm,
có phải vậy chăng?”
Dị học Vô Nhuế đáp:
“Thưa Cù-đàm, đúng vậy, Ngài đã chỉ cho tôi
thấy cái hạnh bất liễu khả tắng hoàn toàn đó bị vô lượng cấu
uế làm ô nhiễm”.
“Này Vô Nhuế, Ta cũng chỉ cho ông thấy cái hạnh
bất liễu khả tắng hoàn toàn đó không bị vô lượng cấu uế làm ô
nhiễm”.
Dị học Vô Nhuế lại hỏi:
“Thưa Cù-đàm, Ngài có thể chỉ cho tôi thấy cái
hạnh bất liễu khả tắng hoàn toàn đó không bị vô lượng cấu uế
làm ô nhiễm như thế nào không?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh tân khổ mà không có ác dục,
không niệm tưởng dục. Này Vô Nhuế, nếu có người hành khổ hạnh
một cách tân khổ, do hành khổ hạnh tân khổ mà không có ác dục,
không niệm tưởng dục. Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là không
cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh tân khổ mà không nhìn ánh mặt
trời, không hấp thụ khí trời. Này Vô Nhuế, nếu có người chuyên
hành khổ hạnh một cách tân khổ, do chuyên hành khổ hạnh tân
khổ nên không nhìn ánh mặt trời, không hấp thụ khí trời. Vô
Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là không cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh một cách tân khổ mà không tự
cống cao cho rằng đã tu khổ hạnh nên tâm không bị trói buộc.
Này Vô Nhuế, nếu có người chuyên hành khổ hạnh, rồi do chuyên
hành khổ hạnh mà không tự cống cao cho rằng đã tu khổ hạnh nên
tâm không bị trói buộc. Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là
không cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh một cách tân khổ mà không quý
mình khinh người. Này Vô Nhuế, nếu có người hành khổ hạnh rồi
do hành khổ hạnh mà không quý mình khinh người. Vô Nhuế, hành
khổ hạnh như vậy là không cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh tân khổ mà không đến nhà người
mà tự khen rằng ‘Tôi hành tân khổ, hành của tôi rất khó khăn’.
Này Vô Nhuế, nếu có người hành khổ hạnh một cách tân khổ, do
hành khổ hạnh tân khổ mà không đến nhà người mà tự khen rằng
‘Tôi hành tân khổ; hành của tôi rất khó khăn’. Vô Nhuế, hành
khổ hạnh như vậy là không cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh tân khổ mà nếu thấy Sa-môn,
Phạm chí được người kính trọng, cúng dường, lễ sự thì không
sanh lòng tật đố, nói rằng ‘Sao lại kính trọng, cúng dường, lễ
sự Sa-môn, Phạm chí ấy? Hãy nên kính trọng, cúng dường, lễ sự
ta đây. Vì sao vậy? Vì ta là người tu khổ hạnh’. Này Vô Nhuế,
nếu có ai hành khổ hạnh một cách tân khổ, rồi do hành khổ hạnh
tân khổ mà nếu thấy Sa-môn, Phạm chí được người kính trọng,
cúng dường, lễ sự thì không sanh lòng tật đố, nói rằng ‘Sao
lại kính trọng, cúng dường, lễ sự Sa-môn, Phạm chí ấy? Hãy
nên kính trọng, cúng dường, lễ sự ta đây. Vì sao vậy? Vì ta là
người tu khổ hạnh.’ Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là không
cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh tân khổ mà nếu thấy Sa-môn,
Phạm chí được người kính trọng, cúng dường, lễ sự thì không
đến mắng ngay mặt Sa-môn, Phạm chí đó, nói rằng: ‘Sao ông lại
được kính trọng, cúng dường, lễ sự? Ông là người nhiều ham
muốn, nhiều mong cầu, thường ăn năm thứ hạt, hạt sanh từ gốc
cây, hạt sanh từ thân cây, hạt sanh từ trái cây, hạt sanh từ
mắt cây và hạt sanh từ hạt. Ví như một trận mưa lớn làm tổn
hại năm thứ hạt giống, nhiễu loạn súc sanh và nhân dân,
Sa-môn, Phạm chí mà hay đến nhà người cũng giống như vậy!’ Này
Vô Nhuế, nếu có ai chuyên hành khổ hạnh một cách tân khổ, rồi
do chuyên hành khổ hạnh tân khổ nên nếu thấy Sa-môn, Phạm chí
được người kính trọng, cúng dường, lễ sự mà không đến mắng
ngay mặt Sa-môn, Phạm chí đó, nói rằng: ‘Sao ông lại được kính
trọng, cúng dường, lễ sự? Ông là người nhiều ham muốn, nhiều
mong cầu, thường ăn năm thứ hạt, hạt sanh từ gốc cây, hạt sanh
từ thân cây, hạt sanh từ trái cây, hạt sanh từ mắt cây và hạt
sanh từ hạt. Ví như một trận mưa lớn làm tổn hại năm thứ hạt
giống, nhiễu loạn súc sanh và nhân dân, Sa-môn, Phạm chí mà
hay đến nhà người cũng giống như vậy.’ Vô Nhuế, hành khổ hạnh
như vậy là không cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh tân khổ mà không sầu, không si,
không khủng bố, không khủng cụ, không sống lén lút, không nghi
ngờ, không mất tiếng, không tham lam, không phóng dật. Này Vô
Nhuế, nếu ai chuyên hành khổ hạnh một cách tân khổ, rồi do
hành khổ hạnh tân khổ mà không sầu, không si, không khủng bố,
không khủng cụ, không sống lén lút, không nghi ngờ, sợ mất
tiếng, không tham lam, không phóng dật. Vô Nhuế, hành khổ hạnh
như vậy là không cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh tân khổ mà không sanh thân
kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, khó tánh, không biết tiết
hạn, những pháp mà Sa-môn, Phạm chí phải thông suốt thì thông
suốt. Này Vô Nhuế, nếu ai chuyên hành khổ hạnh một cách tân
khổ, do chuyên hành khổ hạnh tân khổ mà không sanh thân kiến,
biên kiến, tà kiến, kiến thủ, khó tánh, không biết tiết hạn,
những pháp mà Sa-môn, Phạm chí phải thông suốt thì thông suốt.
Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là không cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do hành khổ hạnh tân khổ mà không có sân triền,
phú kết, bỏn sẻn, ganh tị, dua siểm, dối trá, vô tàm, vô quý.
Này Vô Nhuế! Nếu có ai chuyên hành khổ hạnh một cách tân khổ,
do chuyên hành khổ hạnh tân khổ mà không có sân triền, phú
kết, bỏn sẻn, ganh tị, dua nịnh, dối trá, vô tàm, vô quý. Này
Vô Nhuế! Hành khổ hạnh như vậy là không cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do chuyên hành khổ hạnh tân khổ mà không nói
dối, không nói hai lưỡi, không nói thô ác, không nói thêu dệt,
không có ác giới. Này Vô Nhuế, nếu ai chuyên hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do chuyên hành khổ hạnh tân khổ nên không nói
dối, không nói hai lưỡi, không nói thô ác, không nói thêu dệt,
không có ác giới. Này Vô Nhuế, hành khổ hạnh như vậy là không
cấu uế.
“Này Vô Nhuế, hoặc có người hành khổ hạnh một
cách tân khổ, do chuyên hành khổ hạnh tân khổ mà có tín tâm,
không giải đãi, có chánh niệm, chánh trí, không có ác tuệ. Này
Vô Nhuế, nếu có ai chuyên hành khổ hạnh một cách tân khổ, do
chuyên hành khổ hạnh tân khổ mà có tín tâm, không giải đãi, có
chánh niệm, chánh trí, không có ác tuệ. Vô Nhuế, hành khổ hạnh
như vậy là không cấu uế.
“Này Vô Nhuế, Ta đã chỉ cho ông thấy cái hạnh
bất liễu khả tắng hoàn toàn không bị vô lượng cấu uế làm ô
nhiễm; có phải vậy không?”
Dị học Vô Nhuế đáp:
“Thưa Cù-đàm, đúng vậy, Ngài đã chỉ cho tôi
thấy cái hạnh bất liễu khả tắng hoàn toàn không bị cấu uế làm
ô nhiễm”.
Dị học Vô Nhuế lại hỏi:
“Thưa Cù-đàm, hạnh bất liễu tắng ố này đã đạt
đến bậc nhất, đã đạt đến chân thật[26]
chưa?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Vô Nhuế, hạnh bất liễu tắng ố này chưa đạt
đến bậc nhất, chưa đạt đến chân thật, nhưng có hai hạnh đạt
đến vỏ và đạt đến đốt”.
Dị học Vô Nhuế lại hỏi:
“Thưa Cù-đàm! Thế nào là hạnh bất liễu khả tắng
này chỉ đạt đến vỏ ngoài?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Vô Nhuế, ở đây hoặc có Sa-môn, Phạm chí tu
tập bốn hạnh[27],
không sát sanh, không bảo người sát sanh, không đồng tình với
người sát sanh. Không trộm cắp, không bảo người trộm cắp,
không đồng tình với người trộm cắp. Không phạm con gái của
người, không bảo người khác phạm con gái của người, không đồng
tình với người phạm con gái của người. Không nói dối, không
bảo người khác nói dối, không đồng tình với người nói dối. Vị
đó tu tập bốn hạnh này, ưa thích mà không tiến tới, tâm đi đôi
với từ, biến mãn cả một phương, thành tựu và an trụ. Như vậy
cho đến hai, ba, bốn phương, bốn phương phụ, phương trên,
phương dưới, phổ biến tất cả, tâm đi đôi với từ, không kết,
không oán, không sân nhuế, không não hại, rộng lớn, bao la, vô
lượng, khéo tu tập biến mãn khắp cả thế gian, thành tựu và an
trụ. Cũng như vậy, đối với bi, hỷ, tâm đi đôi với xả, không
kết, không oán, không sân nhuế, không não hại, rộng lớn bao
la, vô lượng, tu tập biến mãn khắp cả thế gian, thành tựu và
an trụ.
“Này Vô Nhuế, ý ông nghĩ sao, phải chăng hạnh
bất liễu khả tắng như vậy đạt đến vỏ ngoài?”
Vô Nhuế đáp:
“Thưa Cù-đàm! Bất liễu khả tắng như vậy đạt đến
vỏ ngoài. Thưa Cù-đàm, còn thế nào là hạnh bất liễu khả tắng
này đạt đến đốt?”
Đức Thế Tôn dạy:
“Này Vô Nhuế, hoặc có Sa-môn, Phạm chí tu tập
bốn hạnh. Không sát sanh, không bảo người sát sanh, không đồng
tình với người sát sanh. Không trộm cắp, không bảo người trộm
cắp, không đồng tình với người trộm cắp. Không phạm con gái
của người, không bảo người khác phạm con gái của người, không
đồng tình với người phạm con gái của người. Không nói dối,
không bảo người khác nói dối, không đồng tình với người nói
dối. Vị đó tu tập bốn hạnh này, ưa thích mà không tiến tới. Sự
tu tập ấy có hành, có tướng mạo, vị ấy nhớ lại vô lượng kiếp
đã trải qua, hoặc một đời, hai đời, trăm ngàn đời, thành kiếp,
hoại kiếp, vô lượng thành hoại kiếp, tại chỗ đó ta là chúng
sanh tên đó, ta đã trải qua ở đó, đã từng sanh ở đó, có họ như
vậy, tên như vậy, sinh hoạt như vậy, uống ăn như vậy, chịu khổ
vui như vậy, tuổi thọ như vậy, sống lâu như vậy, dứt thọ mạng
như vậy, rồi chết đây sanh kia, chết kia sanh đây. Ta sanh tại
chỗ này như vậy, có họ như vậy, có tên như vậy, sinh hoạt như
vậy, uống ăn như vậy, chịu khổ vui như vậy, tuổi thọ như vậy,
sống lâu như vậy, dứt thọ mạng như vậy.
“Này Vô Nhuế, ý ông nghĩ sao, hạnh bất liễu khả
tắng như vậy có đạt đến đốt cây hay không?”
“Vô Nhuế đáp:
“Thưa Cù-đàm, hạnh bất liễu khả tắng như vậy là
đã đạt đến đốt cây. Thưa Cù-đàm, thế nào là hạnh bất liễu khả
tắng đạt đến bậc nhất, đạt đến chân thật?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Vô Nhuế, hoặc có Sa-môn, Phạm chí tu tập
bốn hạnh. Không sát sanh, không bảo người sát sanh, không đồng
tình với người sát sanh. Không trộm cắp, không bảo người trộm
cắp, không đồng tình với người trộm cắp. Không phạm con gái
của người, không bảo người khác phạm con gái của người, không
đồng tình với người phạm con gái của người. Không nói dối,
không bảo người khác nói dối, không đồng tình với người nói
dối. Vị đó tu tập bốn hạnh này, ưa thích mà không tiến tới. Vị
đó bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn người, nhìn thấy
chúng sanh lúc sanh lúc tử, sắc đẹp hoặc xấu, diệu hoặc bất
diệu, qua lại chỗ lành hoặc chỗ không lành, tùy theo nghiệp mà
chúng sanh ấy đã tạo. Vị ấy thấy sự kiện ấy đúng như thật, nếu
chúng sanh nào thành tựu ác hạnh về thân, ác hạnh về khẩu, ác
hạnh về ý, phỉ báng Thánh nhân, tà kiến, thành tựu nghiệp tà
kiến; do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sanh
ấy chắc chắn đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. Nếu chúng sanh
nào thành tựu diệu hạnh về thân, diệu hạnh về khẩu, diệu hạnh
về ý, không phỉ báng Thánh nhân, chánh kiến, thành tựu nghiệp
chánh kiến; do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng
sanh ấy chắc chắn đi lên chỗ lành, sanh vào cõi trời.
“Này Vô Nhuế, ý ông nghĩ sao, hạnh bất liễu khả
tắng như vậy có đạt đến bậc nhất, đạt đến chân thật hay
không?”
Vô Nhuế đáp:
“Thưa Cù-đàm, hạnh bất liễu khả tắng như vậy là
đã đạt đến bậc nhất, đạt đến chân thật. Thưa Cù-đàm, phải
chăng vì để thủ chứng hạnh bất liễu khả tắng này mà các đệ tử
của Sa-môn Cù-đàm nương tựa nơi Sa-môn Cù-đàm để tu hành phạm
hạnh?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Vô Nhuế, không phải vì để thủ chứng hạnh
bất liễu khả tắng này mà đệ tử của Ta nương tựa nơi Ta để tu
hành phạm hạnh.
“Này Vô Nhuế, lại còn có pháp khác tối thượng,
tối diệu, tối thắng, chính vì để chứng đắc pháp ấy nên đệ tử
của Ta nương tựa nơi Ta mà tu hành phạm hạnh”.
Lúc đó, những Dị học trong hội chúng ồn ào đó
liền lớn tiếng la ó:
“Đúng vậy! Đúng vậy! Vì để chứng đắc pháp ấy
nên đệ tử của Sa-môn Cù-đàm nương tựa nơi Sa-môn Cù-đàm để mà
tu hành phạm hạnh”.
Bấy giờ, Dị học Vô Nhuế ra lệnh bảo hội chúng
của mình im lặng, rồi hỏi:
“Thưa Cù-đàm, Pháp nào được gọi là còn có pháp
khác tối thượng tối diệu, tối thắng; chính vì để chứng đắc
pháp ấy nên đệ tử của Sa-môn Cù-đàm nương tựa nơi Sa-môn
Cù-đàm mà tu hành phạm hạnh?”
Bấy giờ Đức Thế Tôn đáp:
“Này Vô Nhuế, nếu Đức Như Lai, Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng
Hựu xuất hiện ở thế gian. Vị đó xả bỏ năm triền cái làm tâm ô
uế, tuệ yếu kém, ly dục, ly pháp ác bất thiện, cho đến chứng
các đệ Tứ thiền, thành tựu và an trụ. Vị ấy với định tâm như
vậy, thanh tịnh không ô uế, không phiền não, nhu nhuyến, khéo
an trụ, chứng đắc tâm bất động mà thú hướng sự diệt tận các
lậu, tự thân chứng ngộ trí thông, biết như thật rằng ‘Đây là
Khổ, đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, biết như thật đây là Khổ
diệt đạo’. Cũng biết như thật đây là lậu, biết đây là lậu tận,
đây là lậu diệt, biết như thật đây là lậu diệt đạo. Vị đó biết
như vậy, thấy như vậy rồi thì tâm giải thoát dục lậu, tâm giải
thoát hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi liền biết mình đã
giải thoát, biết đúng một cách như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt,
phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái
sanh nữa’.
“Này Vô Nhuế, như vậy gọi là còn có pháp khác
tối thượng, tối diệu, tối thắng. Chính vì để chứng đắc pháp ấy
nên đệ tử của Ta nương nơi Ta mà tu hành phạm hạnh”.
Bấy giờ Cư sĩ Thật Ý nói rằng:
“Này Vô Nhuế, Đức Thế Tôn đang ở đấy. Ông hãy
chỉ bằng một vấn đề đủ để hủy diệt Ngài như lăn cái bình không
đi! Ông hãy nói cái ví dụ con trâu đui ăn cỏ nơi biên địa như
khi nãy đi!”
Đức Thế Tôn nghe xong, hỏi Dị học Vô Nhuế:
“Quả thật ông có nói như vậy không?”
Dị học Vô Nhuế đáp:
“Thưa Cù-đàm, quả thật tôi có nói như vậy”.
Đức Thế Tôn hỏi tiếp:
“Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở
quá khứ, nếu gặp khu rừng vắng, sơn lâm, dưới gốc cây hay trên
sườn núi cao, vắng lặng không có tiếng động, xa vắng, không có
sự dữ, không có người đời, liền tùy thuận mà thiền tọa. Các
Đức Phật Thế Tôn ở nơi rừng vắng, sơn lâm, dưới gốc cây hay
trên sườn cao, vắng lặng không có tiếng động, xa vắng, không
có sự dữ, không có người đời, liền tùy thuận mà thiền tọa. Các
Ngài ở nơi xa vắng, thường thích thiền tọa, an ổn và khoái
lạc. Các Ngài chưa hề một ngày một đêm tụ tập hội họp cùng mọi
người như ông và quyến thuộc của ông hôm nay. Này Vô Nhuế, ông
có bao giờ nghe các vị trưởng lão cựu học nói như vậy không?”
Dị học Vô Nhuế đáp:
“Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở
quá khứ, nếu gặp khu rừng vắng, sơn lâm, dưới gốc cây hay trên
sườn núi cao, vắng lặng, không có tiếng động, xa vắng, không
có sự dữ, không có người đời, liền tùy thuận mà thiền tọa. Các
Đức Phật Thế Tôn ở nơi rừng vắng, sơn lâm, dưới gốc cây hay
trên sườn núi cao, vắng lặng, không có sự dữ, không có người
đời, liền tùy thuận mà thiền tọa. Các Ngài ở nơi xa vắng,
thường thích thiền tọa, an ổn khoái lạc. Các Ngài chưa hề một
ngày một đêm tụ tập, hội họp cùng mọi người như tôi và quyến
thuộc của tôi hôm nay. Thưa đức Cù-đàm, tôi có nghe các vị
trưởng lão cựu học nói như vậy”.
“Này Vô Nhuế, ông há không nghĩ rằng ‘Như các
Đức Thế Tôn đó ở nơi rừng vắng, sơn lâm, dưới gốc cây hay trên
sườn núi cao, vắng lặng, không có tiếng động, xa vắng, không
có sự dữ, không có người đời, liền tùy thuận mà thiền tọa. Các
Ngài ở nơi xa vắng thường thích thiền tọa, an ổn khoái lạc. Vị
Sa-môn Cù-đàm này cũng học đạo chánh giác như vậy’. Có phải
vậy không?”
Dị học Vô Nhuế đáp:
“Thưa Cù-đàm, nếu tôi biết như vậy, tôi đã
chẳng nói rằng chỉ bằng một vấn đề cũng đủ hủy diệt Ngài như
lăn cái bình không, và cũng đã chẳng nói đến cái ví dụ con
trâu đui ăn cỏ nơi biên địa”.
Đức Thế Tôn nói:
“Này Vô Nhuế, ta có pháp thiện tương ưng với
thiện, giải thoát tương ưng với giải thoát, có thể tự thân
chứng ngộ. Do đây mà Như Lai tự xưng là Bậc Vô Úy. Các Tỳ-kheo
đệ tử của Ta, ai đến với tâm không dua nịnh, không lừa dối,
chất trực không hư vọng, Ta giáo huấn cho và theo giáo huấn
ấy, chắc chắn sẽ đạt đến cứu cánh trí.
“Này Vô Nhuế, nếu ông nghĩ rằng ‘Sa-môn Cù-đàm
vì muốn làm Thầy cho nên thuyết pháp’. Ông chớ nghĩ như vậy.
Thầy ông Ta trả lại cho ông. Ta chỉ thuyết pháp cho nghe thôi.
Vô Nhuế, nếu ông nghĩ rằng ‘Sa-môn Cù-đàm vì tham đệ tử cho
nên thuyết pháp’. Ông chớ nghĩ như vậy. Đệ tử của ông trả lại
cho ông, Ta chỉ thuyết pháp cho ông nghe thôi. Này Vô Nhuế,
nếu ông nghĩ rằng ‘Sa-môn Cù-đàm vì tham sự cúng dường cho nên
thuyết pháp’ Ông chớ nghĩ như vậy. Đồ cúng dường trả lại cho
ông, ta chỉ thuyết pháp cho ông nghe thôi. Này Vô Nhuế, nếu
ông nghĩ rằng ‘Sa-môn Cù-đàm vì tham được khen ngợi cho nên
thuyết pháp’. Ông chớ nghĩ như vậy. Điều khen ngợi trả lại cho
ông, Ta chỉ thuyết pháp cho ông nghe thôi. Này Vô Nhuế, nếu
ông nghĩ rằng ‘Nếu ta có thiện pháp tương ưng thiện, giải
thoát đưa đến giải thoát, vì Sa-môn Cù-đàm này đoạt của ta,
hủy diệt ta’. Ông chớ nghĩ như vậy. Pháp của ông trả lại cho
ông, Ta chỉ thuyết pháp cho ông nghe thôi”.
Lúc bấy giờ tất cả hội chúng đều im lặng. Vì
sao vậy? Vì họ bị Ma vương chế phục.
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Cư sĩ Thật Ý:
“Ông hãy nhìn tất cả hội chúng đang im lặng
này. Vì sao vậy? Vì họ đang bị Ma vương chế phục. Nó khiến cả
hội chúng Dị học không có một Dị học nào có ý niệm ‘Ta hãy thử
theo Sa-môn Cù-đàm tu hành phạm hạnh’.”
Đức Thế Tôn biết vậy, Ngài thuyết pháp cho Cư
sĩ Thật Ý nghe, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ.
Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho ông ấy nghe,
khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ rồi, Ngài liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, nắm tay Cư sĩ Thật Ý, vận dụng thần túc,
nương hư không mà đi.
Phật thuyết như vậy. Cư sĩ Thật Ý sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
D.25 Udumbarikā-sīhanāda-sutta. Hán, biệt dịch, No.1(8),
No.11.
-
[02] Cư sĩ Thật Y.
No.1(8): Tán-đà-na. No.11: Hòa hiệp. Pāli: Sandhāna gahapati.
-
[03] Ưu-đàm-bà-la lâm
Dị học viên. No.1(8): Ô-tạm-bà-lị-nữ phạm chí lâm. No.11:
Ô-đàm-mạt-lê viên: Pāli: udumbarikāya paribbājakārāmo. một bà
hoàng (devī) dựng Paribbajakārāma (Tinh xá dành cho các du sĩ
dị học), gần Rājagaha (Vương xá).
-
[04] Vô Nhuế.
No.1(8), như No.11: Ni-câu-đà. Pāli: Nigrodha.
-
[05] Điểu luận. Cũng
trong bản Hán này những chỗ khác gọi là Súc sanh luận. Xem
cht.4, kinh 207. Pāli: tiracchānakatha.
-
[06] Không tuệ giải
thoát. Pāli nói: suññāgārahātā samaassa gotamassa paññā, “trí
tuệ của Sa-môn Cù-đàm bị hủy hoại vì sống nơi hoang vắng”
(hoặc hiểu cụ thể hơn: bị hủy hoại như ngôi nhà trống). Đề tài
về tu tập nơi rừng vắng để chứng đạt vô thượng thanh tịnh
không tánh (parisuhā paramānuttarā suññatā) được nói đến trong
M.122 và 123 (Xem các kinh số 190 và 191 ở sau). No.11 (...)
xử Ứng Chánh đẳng giác không xá, tuệ hà năng chuyển, “ở trong
cái nhà trống của Phật, thì tuệ nào mà có thể chuyển?”
-
[07] Hành biên chí
biên. Pāli: so antamantān’ eva sevati, đại ý Phật không đủ trí
tuệ đi thẳng vào vấn đề, mà chỉ đi loanh quanh “từ đầu này đến
đầu nọ”.
-
[08] Bất liễu tắng ố
hành, tức lối tu hành khổ hạnh lấy sự ghê tởm (tăng ố) làm bản
chất. Pāli: tapojiguccha.
-
[09] Hán: bất lai
tôn. Pāli: na-ehi-bhadantika, “không là Tôn giả được gọi: Mời
đến đây!”
-
[10] Hán: bất thiện
tôn. Có lẽ: na-sādhu-bhadantika, “không là Tôn giả được chào
đón: Lành thay, tôn giả!”
-
[11] Hán: bất trụ
tôn. Pāli: na-tiha-bhadantika, “không là Tôn giả được mời mọc:
Hãy ở lại đây, Tôn giả!”
-
[12] Hán: bất hoài
nhâm gia thực. Pāli: na gabbhiniyā (paiganhāti), không (nhận
thức ăn) từ người đàn bà mang thai.
-
[13] Hán: ác thủy.
Pāli: thusodaka, nước lên men.
-
[14] Pāli: ekāgāriko
vā hoti ekālopiko, mỗi nhà chỉ nhận một miếng ăn.
-
[15] Hán: thực nhất
đắc. Pāli: ekissāpi dattiyā yāpeti, chỉ sống bằng một vật được
cho.
-
[16] Hán: thái như.
Pāli: sāka-bhakkho.
-
[17] Hán: bại tử,
loại cỏ giống như lúa. Pāli: sāmāka.
-
[18] Hán: đầu-đầu-la.
Pāli: daddula.
-
[19] Hán: chí vô sự
xứ, đến nơi rừng vắng? Không thấy Pāli tương đương. Tham
chiếu: vana-mūla-palāhāro yāpeti.
-
[20] Hán: liên hiệp
y. Pāli: masāāni, vải gai lẫn các vải khác.
-
[21] Hán: đầu- xá y.
Pāli dussa, vải thô chưa nhuộm màu.
-
[22] Hán: thảo;
Tống-Nguyên: quả; Minh: Kinh số 18: ngọa quả. Pāli: phalaka,
(nằm trên) tấm ván. Bản Hán hiểu phala(ka) là trái cây.
-
[23] Hán: Học phiền
nhiệt hạnh. Pāli: ātāpanaparitāpanānuyogam anuyutto viharati,
sống hành theo sự khổ hạnh ép xác.
-
[24] Để bản: thanh
khổ; Tống-Nguyên-Minh: tinh khổ. Pāli: tapassī tapassa
samādiyati, người tu khổ hạnh thọ trì pháp khổ hạnh.
-
[25] Hán: nan vi;
không thấy từ Pāli liên hệ.
-
[26] Đắc đệ nhất, đắc
chân thật. Pāli: aggappattā, sārappattā, đạt đến đỉnh cao, đạt
đến lõi.
-
[27] Hành tứ hành.
Pāli: cātuyāmasavarasatto, được phòng hộ bằng bốn cấm giới
luật nghi.