- 09. PHẨM NHÂN
-
-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ có một Tỳ-kheo sống cô độc tại một nơi
xa vắng, ẩn dật ở chỗ yên tĩnh, thiền tọa tư duy, trong tâm
khởi lên ý nghĩ: “Đức Thế Tôn thăm hỏi ta, nói chuyện với ta,
thuyết pháp cho ta nghe để được giới cụ túc[02]
mà không phế bỏ thiền định, thành tựu quán hạnh[03],
ở nơi không tịnh.[04]“
Bấy giờ vào lúc xế, sau khi suy nghĩ như vậy
rồi, vị Tỳ-kheo ấy liền từ chỗ thiền tọa đứng dậy, đi đến Đức
Phật. Đức Thế Tôn nhìn thấy vị Tỳ-kheo ấy từ xa đi đến, nhân
nơi Tỳ-kheo ấy, Ngài bảo các vị Tỳ-kheo:
“Các ngươi hãy ước nguyện rằng: ‘Đức Thế Tôn
thăm hỏi ta, nói chuyện với ta, thuyết pháp cho ta nghe’. Vậy
hãy thành tựu giới cụ túc và không phế bỏ thiền định, thành
tựu quán hạnh, ở nơi không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Ta có thân
tộc. Mong sao kia nhờ ta mà khi thân hoại mạng chung chắc chắn
họ được lên chỗ lành, sanh vào cõi trời’. Vậy hãy thành tựu
được giới cụ túc và không phế bỏ thiền định, thành tựu quán
hạnh, ở nơi không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Các thí chủ
cung cấp cho ta y phục, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang,
đủ mọi thứ để nuôi thân. Mong cho kia nhờ sự bố thí này mà có
nhiều công đức, có đại quang minh, được nhiều phước báo’. Vậy
hãy thành tựu được giới cụ túc và không phế bỏ thiền định,
thành tựu quán hạnh, ở nơi không tịnh. “Này Tỳ-kheo, hãy ước
nguyện rằng: ‘Mong ta có thể nhẫn chịu được sự đói, khát,
nóng, lạnh, muỗi mòng châm chích, sự áp bức của gió, của mặt
trời; bị tiếng xấu, bị đánh đập cũng có thể nhẫn chịu; bản
thân bị tật bệnh rất là đau khổ, cho đến mạng sống sắp tuyệt,
các sự không được vui, ta cũng đều có thể kham nhẫn’. Vậy hãy
thành tựu được giới cụ túc và không phế bỏ thiền định, thành
tựu quán hạnh, ở nơi không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Mong ta
kham nhẫn được điều không hoan lạc. Nếu sanh tâm không hoan
lạc, không bao giờ để đắm trước’. Vậy hãy thành tựu được giới
cụ túc và không phế bỏ thiền định, thành tựu quán hạnh, ở nơi
không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Nếu ta sanh
khởi ba niệm ác bất thiện, niệm dục, niệm nhuế, niệm hại; mong
ta không bao giờ để đắm trước với ba niệm ác bất thiện đó’.
Vậy hãy thành tựu được giới cụ túc và không phế bỏ thiền định,
thành tựu quán hạnh, ở nơi không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Mong ta ly
dục, ly pháp ác bất thiện, cho đến chứng đắc đệ Tứ thiền,
thành tựu và an trụ’. Vậy hãy thành tựu giới cụ túc và không
phế bỏ thiền định, thành tựu quán hạnh, ở nơi không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Mong ta dứt
hẳn ba kiết, chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, không bị rơi xuống pháp
ác, quyết định thú hướng đến quả vị Chánh giác, tối đa còn bảy
lần ở cõi trời. Sau bảy lần qua lại rồi liền chứng đắc khổ
biên’. Vậy hãy thành tựu giới cụ túc và không phế bỏ thiền
định, thành tựu quán hạnh, ở nơi không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Mong ta đã
dứt hết ba kết, làm mỏng dâm, nộ, si; chỉ còn một lần qua lại
ở cõi trời, cõi người. Sau một lần qua lại rồi liền chứng đắc
khổ biên’. Vậy hãy thành tựu giới cụ túc và không phế bỏ thiền
định, thành tựu quán hạnh, ở nơi không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Mong ta dứt
hết năm phần kiết, sanh vào thế gian kia mà chứng đắc
Niết-bàn, được pháp bất thối, không trở lại thế gian này’. Vậy
hãy thành tựu giới cụ túc và không phế bỏ thiền định, thành
tựu quán hạnh ở nơi không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Mong ta
được tịch tịnh giải thoát, ly sắc, chứng đắc vô sắc với định
như vậy, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trụ, do tuệ quán
mà đoạn trừ lậu và biến tri lậu’. Vậy hãy thành tựu giới cụ
túc và không phế bỏ thiền định, thành tựu quán hạnh ở nơi
không tịnh.
“Này Tỳ-kheo, hãy ước nguyện rằng: ‘Mong ta
được như ý túc, thiên nhãn trí, tha tâm trí, túc mạng trí,
sanh tử trí, các lậu đã dứt sạch, chứng đắc vô lậu, tâm giải
thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này tự tri tự giác, tự
thân chứng ngộ, thành tựu và an trụ, biết một cách như thật
rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm
xong, không còn tái sanh nữa’.’ Vậy hãy thành tựu giới cụ túc
và không phế bỏ thiền định, thành tựu quán hạnh ở nơi không
tịnh”.
Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật
thuyết giảng, khéo thọ lãnh, khéo ghi nhớ, từ chỗ ngồi đứng
dậy, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh ba vòng
rồi lui ra. Tỳ-kheo ấy lãnh thọ lời Phật dạy, ẩn dật nơi yên
tĩnh, thiền tọa tư duy, tu hành tinh cần, tâm không phóng dật.
Do ẩn dật những nơi yên tĩnh, thiền tọa tư duy, tu hành tinh
cần, tâm không phóng dật để đạt đến mục đích mà thiện nam tử
cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống
không gia đình, xuất gia học đạo, là đây chỉ mong thành tựu
phạm hạnh vô thượng, ngay trong đời này mà tự tri tự giác, tự
thân chứng ngộ, thành tựu và an trụ, biết một cách như thật
rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm
xong, không còn tái sanh nữa’. Tôn giả ấy đã biết pháp rồi,
liền chứng quả A-la-hán.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M. 6 Ākakheyyasutta. Tham chiếu, A. 10. 71 Ākaṅkha.
-
[02] Đắc cụ túc giới.
Pāli: sampannasīla, giới được thành tựu.
-
[03] Thành tựu quán
hạnh. Pāli: vipassanāya samannāgato.
-
[04] Không tĩnh xứ.
Pāli: suññāgāra, chỗ trống không, trống trải