- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 10. PHẨM LÂM
-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn
Cấp cô độc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có Tỳ-kheo không thiện xảo quán tâm người khác, hãy thiện
xảo tự quán sát tâm của chính mình. Nên học như vậy.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo thiện xảo quán tự tâm[02]?
Tỳ-kheo nếu có quán này, chắc chắn được nhiều lợi ích. ‘Phải
chăng ta được chỉ của nội tâm[03],
nhưng chưa được quán pháp bằng tối thượng tuệ[04]?
Phải chăng ta được quán pháp tối thượng tuệ, nhưng chưa được chỉ
nội tâm? Phải chăng ta chưa được chỉ nội tâm, cũng chưa được
quán pháp tối thượng tuệ? Phải chăng ta được chỉ nội tâm, cũng
được quán pháp tối thượng tuệ?”
“Nếu Tỳ-kheo sau khi quán, liền biết rằng: ‘Ta được chỉ nội tâm,
chưa được quán pháp tối thượng tuệ’. Tỳ-kheo ấy được chỉ nội tâm
rồi, hãy nên mong cầu quán pháp tối thượng tuệ. Vị ấy sau đó
được chỉ nội tâm và cũng được quán pháp tối thượng tuệ.
“Nếu Tỳ-kheo sau khi quán liền biết rằng: ‘Ta được quán pháp tối
thượng tuệ, chưa được chỉ nội tâm’. Tỳ-kheo ấy trụ nơi quán pháp
tối thượng tuệ rồi, hãy nên mong cầu nội chỉ tâm tĩnh chỉ. Vị ấy
sau đó được quán pháp tối thượng tuệ và cũng được chỉ nội tâm.
“Nếu Tỳ-kheo sau khi quán liền biết rằng: ‘Ta chưa được chỉ nội
tâm cũng chưa được tối thượng tuệ’. Như vậy Tỳ-kheo chưa được
pháp thiện này; vì muốn được nên phải nhanh chóng tìm cầu phương
tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kham nhẫn, đừng
để bị thoái chuyển. Ví như người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy
áo, phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện cứu đầu, cứu áo. Cũng
vậy, Tỳ-kheo chưa được pháp thiện này, vì muốn được nên phải
nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm
chánh trí, đừng để bị thoái chuyển. Vị ấy sau đó liền được chỉ
nội tâm và cũng được quán pháp tối thượng tuệ.
“Nếu Tỳ-kheo sau khi quán tâm, liền biết rằng: ‘Ta được chỉ nội
tâm, cũng được quán pháp tối thượng tuệ’. Tỳ-kheo ấy tạm trú nơi
pháp thiện này rồi, hãy nên mong cầu tự thân chứng ngộ Lậu tận
trí thông[05].
Vì sao vậy? Ta nói, ‘Không được cất chứa tất cả y, nhưng cũng
nói được phép cất chứa tất cả y[06]’.
“Loại y nào mà Ta nói không được cất chứa? Nếu cất chứa y mà
tăng trưởng pháp ác bất thiện, suy thoái pháp thiện, loại y như
vậy, Ta nói không được cất chứa.
“Loại y nào Ta nói được phép cất chứa? Nếu cất chứa y mà tăng
trưởng pháp thiện, suy thoái pháp ác bất thiện, loại y như vậy
Ta nói được phép cất chứa”. Cũng như y áo, về uống ăn, giường
chõng, thôn ấp, cũng giống như vậy.
“Ta nói, không được quen thân tất cả mọi người, nhưng cũng nói
được phép quen thân tất cả mọi người[07].
“Loại người nào Ta nói không được quen thân? Nếu quen thân người
mà tăng trưởng pháp ác bất thiện, suy thoái pháp thiện; người
như vậy Ta thuyết giảng không được quen thân.
“Loại người nào Ta nói được phép quen thân? Nếu quen thân người
mà tăng trưởng pháp thiện, suy thoái pháp ác bất thiện; người
như vậy Ta nói được phép quen thân.
“Vị ấy biết đúng như thật pháp nên tập hành, cũng biết đúng như
thật pháp không nên tập hành[08].
Vị ấy biết đúng như thật pháp nên tập hành, pháp không nên tập
hành rồi, với pháp không nên tập hành thì không tập hành, với
pháp nên tập liền tập hành. Vị ấy không tập hành pháp không nên
tập hành, tập hành pháp nên tập hành rồi liền tăng trưởng pháp
thiện, suy thoái pháp ác bất thiện.
“Như vậy gọi là Tỳ-kheo thiện xảo quán tự tâm, khéo biết tự tâm,
khéo thủ, khéo xả”.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan
hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli,
A. 10. 54 Samatha.
-
[02] Thiện tự quán tâm.
Pāli: sacittapariyāyakusala.
-
[03] Nội chỉ; đây nói
về chỉ quán pháp môn. Pāli: ajjhattacetosamatha.
-
[04] Tối thượng tuệ
quán pháp; được chỉ (samtha) nhưng chưa được quán (vipassana).
Pāli: adhipaññā-dhammavipassana, sự quán chiếu pháp bằng tuệ
tăng thượng.
-
[05] Lậu tận trí thông
tác chứng. Pāli: āsavāna khayāya yo karaīyo, nỗ lực dứt sạch các
lậu.
-
[06] Pāli: cīvarampāha
bhikkhave duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampīti, Y, Ta
nói có hai loại: nên sử dụng và không nên sử dụng.
-
[07] Hiệp tập nhất
thiết nhân. Pāli: puggalampāham bhikkhave duvidhena vadāmi
sevitabbampi asevitabbampī ti, người, Ta nói có hai loại: đáng
thân cận và không đáng thân cận.
-
[08] Tập pháp bất khả
tập pháp. Pāli: sevitabba, asevitabba: nên thân cận và không nên
thân cận, nên sử dụng và không nên sử dụng, nên phục vụ và không
nên phục vụ.
|