- 10. PHẨM LÂM
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Bạt-kì-sấu[02],
ở đô ấp A-nô-ba[03]
của người Bạt-kì.
Bấy giờ, vào lúc xế trưa, Đức Thế Tôn từ chỗ
tĩnh tọa đứng dậy, bước ra khỏi tịnh thất và nói:
“A-nan, Ta và ông hãy đi đến sông
A-di-la-hòa-đế[04]
để tắm.
Tôn giả A-nan nói:
“Kính vâng”.
Khi ấy, Đức Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đi đến
sông A-di-la-hòa-đế, cởi bỏ y phục trên bờ sông rồi xuống nước
tắm. Tắm xong, lên bờ, lau mình và mặc y phục vào. Bấy giờ Tôn
giả A-nan cầm quạt quạt hầu Phật. Khi ấy, Đức Thế Tôn ngoảnh
lại, hỏi:
“A-nan, Đề-bà-đạt-đa vì phóng dật nên sẽ bị đọa
lạc rất cực khổ, chắc chắn đến chỗ ác, sanh vào địa ngục, ở
đấy trọn kiếp, không thể cứu vớt. A-nan, ông có nghe các
Tỳ-kheo nói lại rằng Ta đã xác định Đề-bà-đạt-đa chắc chắn đến
chỗ ác, sanh vào địa ngục, ở đấy trọn kiếp, không thể cứu vớt
chăng?”
Tôn giả A-nan thưa:
“Quả vậy, lúc bấy giờ có một vị Tỳ-kheo nói với
con rằng: ‘Này Tôn giả A-nan, phải chăng Đức Thế Tôn dùng Tha
tâm trí biết rõ tâm Đề-bà-đạt-đa nên Ngài xác định rằng
Đề-bà-đạt-đa[05]
chắc chắn đến chỗ ác, sanh vào địa ngục, ở đấy trọn kiếp,
không cứu vớt?[06]’”
Đức Thế Tôn nói:
“A-nan, Tỳ-kheo ấy hoặc nhỏ, hoặc trung, hoặc
lớn tuổi, hoặc niên thiếu, đều không hiểu biết[07].
Vì sao vậy? Như Lai đã xác định, nhưng người ấy vẫn còn nghi
hoặc. A-nan, Ta không thấy có những Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn,
Phạm chí hay bất cứ ai khác ở trên đời này từ người đến trời
như Ta ghi nhận nhất quyết về Đề-bà-đạt-đa. Vì sao vậy? A-nan,
Ta xác định rằng Đề-bà-đạt-đa chắc chắn đến chỗ ác, sanh vào
địa ngục, ở đấy trọn kiếp, không thể cứu vớt. A-nan, nếu Ta
thấy Đề-bà-đạt-đa có được chút pháp bạch tịnh bằng một sợi
lông, Ta đã không xác định rằng Đề-bà-đạt-đa chắc chắn đến chỗ
ác, sanh vào địa ngục, ở đấy trọn kiếp, không thể cứu vớt.
A-nan, vì Ta không thấy Đề-bà-đạt-đa có được chút pháp bạch
tịnh bằng một sợi lông, nên Ta xác định rằng Đề-bà-đạt-đa chắc
chắn đến chỗ ác, sanh vào địa ngục, ở đấy trọn kiếp, không thể
cứu vớt.
“A-nan, ví như cách thôn nọ không xa, có một
hầm phẩn sâu rộng, có người bị lọt vào đấy, chìm xuống tận
đáy. Có người đi đến trông thấy, phát khởi lòng đại từ đại bi,
mong muốn cho được sự lợi ích và phước lành, được an ổn, khoái
lạc. Người ấy nhìn quanh rồi nói, ‘Người này có chỗ nào như
lông, tóc không bị dính phẩn để ta có thể nắm kéo lên chăng?’
Người ấy nhìn khắp châu thân nhưng không thấy có chỗ nào bằng
một sợi lông, một cọng tóc mà không bị dính phẩn để có thể
dùng tay nắm kéo lên được’. Cũng vậy, này A-nan, nếu Ta thấy
Đề-bà-đạt-đa có một chút pháp bạch tịnh nào bằng một sợi lông,
Ta đã không ghi xác định rằng Đề-bà-đạt-đa chắc chắn đến chỗ
ác, sanh vào địa ngục, ở đấy trọn kiếp, không thể cứu vớt.
A-nan, vì Ta không thấy Đề-bà-đạt-đa có được chút pháp bạch
tịnh nào bằng một sợi lông, nên Ta ghi xác định rằng
Đề-bà-đạt-đa chắc chắn đến chỗ ác, sanh vào địa ngục, ở đấy
trọn kiếp, không thể cứu vớt.
Khi ấy, Tôn giả A-nan khóc lóc, lấy tay gạt lệ[08]
rồi thưa rằng:
“Kính bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu! Thật là hy
hữu! Thế Tôn đã xác định rằng ‘Đề-bà-đạt-đa chắc chắn đến chỗ
ác, sanh vào địa ngục, ở đấy trọn kiếp không thể cứu vớt’.”
“Đúng vậy A-nan! Đúng vậy A-nan! Ta xác định
rằng Đề-bà-đạt-đa chắc chắn đến chỗ ác, sanh vào địa ngục, ở
đấy trọn kiếp, không thể cứu vớt. A-nan, nếu ông được Như Lai
thuyết giảng cho nghe về phân biệt Đại nhân căn trí[09]
chắc chắn sẽ có tín tâm tối thượng nơi Như Lai mà luôn luôn
hoan hỷ”.
Khi ấy, Tôn giả A-nan chắp tay hướng Phật mà
bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, nay quả là đúng lúc! Bạch Thiện
Thệ, nay quả là đúng lúc! Ngưỡng mong Thế Tôn thuyết giảng cho
các Tỳ-kheo nghe về phân biệt Đại nhân căn trí. Các Tỳ-kheo
được Thế Tôn thuyết giảng cho nghe sẽ khéo léo thọ trì”.
Đức Thế Tôn nói:
“A-nan, hãy lắng nghe! Hãy khéo tư niệm. Nay Ta
sẽ thuyết giảng cho ông nghe về phân biệt Đại nhân căn trí”.
Tôn giả A-nan vâng lời dạy chờ nghe.
Thế Tôn nói:
“A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm
người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành
tựu pháp bất thiện. Sau đó, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát
lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh phát
bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện,
nhưng thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó,
lại sẽ phát sanh pháp thiện. Như vậy, người này đạt được pháp
thanh tịnh.
“A-nan, ví như sáng sớm, mặt trời vừa xuất
hiện, bóng tối diệt, ánh sáng sanh. A-nan, ý ông nghĩ sao, mặt
trời lên dần cho đến giờ ăn trưa, phải chăng bóng tối đã diệt,
ánh sáng đã sanh?
Tôn giả A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy”.
“Cũng vậy, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện,
cũng thành tựu pháp bất thiện. Sau đó, Như Lai dùng Tha tâm
trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp
thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh
pháp bất thiện, nhưng thiện căn còn sót lại, chưa đoạn tuyệt.
Từ thiện căn đó sẽ lại phát sanh pháp thiện. Như vậy, người
này đạt được pháp thanh tịnh.
“A-nan, ví như hạt lúa giống không hư, không
vỡ, không mục, không nứt, không bị gió, nắng làm thương tổn,
mùa thu được cất giấu kín đáo. Nếu người cư sĩ giỏi, sửa sang
khoảnh ruộng tốt rồi vãi hạt giống vào và mưa xuống phải thời,
thì này A-nan, ý ông nghĩ sao, hạt giống ấy có dần dần lớn lên
được chăng?”
Tôn giả A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, có thể vậy”.
“Cũng vậy, A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí quán
sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng
thành tựu pháp bất thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm trí lại
quán sát tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh
pháp bất thiện; người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất
thiện, nhưng thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn
đó, thiện pháp sẽ lại phát sanh. Như vậy là người này đạt được
pháp thanh tịnh. A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như
Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như
vậy.
“Lại nữa, A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí quán
sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng
thành tựu pháp bất thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm trí quán
sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh
pháp bất thiện, thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc chắn
rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp suy thoái[10].
“A-nan, ví như từ lúc xế trưa cho đến khi mặt
trời lặn, ánh sáng diệt, bóng tối sanh; A-nan, ý ông nghĩ sao,
sau khi mặt trời lặn, phải chăng ánh sáng đã diệt, bóng tối đã
sanh?”
Tôn giả A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy”.
“Cũng vậy, A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí quán
sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng
thành tựu pháp bất thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm trí quán
sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh
pháp bất thiện; người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất
thiện, thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc chắn rồi sẽ
đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp suy thoái”.
“A-nan, ví như hạt lúa giống không hư, không
vỡ, không mục, không nứt, không bị gió, nắng làm thương tổn,
mùa thu đến được cất giấu kín đáo. Nếu người cư sĩ kia giỏi,
sửa sang ruộng tốt rồi vãi hạt giống vào nhưng mưa xuống không
phải thời, thì này A-nan, ý ông nghĩ sao, hạt giống này có dần
dần lớn lên được không?”
Tôn giả A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, không thể được”.
“Cũng vậy, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện,
cũng thành tựu pháp bất thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện,
sanh pháp bất thiện; người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp
bất thiện, thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc chắn rồi sẽ
đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp suy thoái”.
“A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như Lai.
Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như vậy.
“Lại nữa, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát tâm người khác. Ta không thấy người này có được chút
pháp bạch tịnh nào, dù chỉ bằng một sợi lông. Người này một
mực chỉ có pháp ác, bất thiện, ô uế, làm gốc rễ cho sự hữu
trong tương lai là sự phiền nhiệt, là khổ báo, là nguyên nhân
của sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người này khi thân hoại
mạng chung, chắc chắn đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục”.
“A-nan, ví như hạt giống không hư, vỡ, mục nát,
bị gió nắng làm thương tổn, mùa thu không được cất giấu kín
đáo. Nếu người cư sĩ kia không phải là nông phu giỏi, lại
không khéo canh tác, gieo hạt giống xuống và mưa không phải
thời, thì này A-nan, ý ông nghĩ sao, hạt giống lúa có dần dần
lớn lên được chăng?”
Tôn giả A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, dạ không”.
“Cũng vậy, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát tâm người khác, Ta không thấy người này có được chút
pháp bạch tịnh, dù bằng sợi lông. Người này pháp ác bất thiện
hoàn toàn dẫy đầy, ô uế, làm gốc rễ cho sự hữu trong tương
lai, lại phiền nhiệt, khổ báo, nguyên nhân của sanh, già,
bệnh, chết. Như vậy, người này khi thân hoại mạng chung, chắc
chắn đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. A-nan, đó gọi là Đại
nhân căn trí của Như Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc
rễ của các pháp như vậy”.
“Khi ấy Tôn giả A-nan chắp tay hướng Phật mà
bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã thuyết giảng về ba
hạng người như vậy. Mong Thế Tôn có thể giảng thuyết về ba
hạng người khác nữa được chăng?”
Đức Thế Tôn nói:
“Ta có thể nói. Này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm
trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp bất
thiện, cũng thành tựu pháp thiện. Sau đó, Như Lai dùng Tha tâm
trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp bất
thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh
pháp thiện, nhưng bất thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt. Từ
bất thiện căn này sẽ lại phát sanh pháp bất thiện. Như vậy,
người này đi đến pháp suy thoái.
“A-nan, ví như lửa đốt, khi mới đốt chỉ có một
ngọn, có người đẩy cỏ khô thêm rồi chất củi khô lên. Này
A-nan, ý ông nghĩ sao, ngọn lửa kia càng bốc cháy mạnh lên
chăng?”
Tôn giả A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, quả như vậy”.
“Cũng vậy, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp bất
thiện, cũng thành tựu pháp thiện. Sau đó, Như Lai dùng Tha tâm
trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp bất
thiện, sanh pháp thiện. Người này đã được diệt pháp bất thiện,
sanh pháp thiện, nhưng bất thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt.
Từ bất thiện căn đó sẽ lại phát sanh pháp bất thiện. Như vậy,
người này đi đến pháp suy thoái.
“Này A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như
Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như
vậy.
“Lại nữa, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp bất
thiện, cũng thành tựu pháp thiện. Sau đó, Như Lai dùng Tha tâm
trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp bất
thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh
pháp thiện, nhưng bất thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc
chắn rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đạt đến pháp thanh
tịnh.
“A-nan, ví như đốt lửa, khi mới đốt chỉ có một
ngọn, có người đem cây lửa đang cháy sáng này để trên đất
bằng, hoặc để trên đá; này A-nan, ý ông nghĩ sao, ngọn lửa há
càng bốc cháy mạnh lên chăng?”
Tôn giả A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, không thể vậy”.
“Cũng vậy, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp bất
thiện, cũng thành tựu pháp thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm
trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp bất
thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh
pháp thiện, nhưng bất thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc
chắn rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy là người này đạt pháp thanh
tịnh.
“A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như Lai.
Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như vậy.
“Lại nữa, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát tâm người khác, Ta không thấy người này có chút hắc
nghiệp dù bằng một sợi lông. Người này tuyệt đối chỉ có pháp
thiện dẫy đầy, cùng với lạc, được lạc báo, chắc chắn sanh vào
lạc xứ mà được trường thọ. Như vậy, người này ngay trong đời
này chắc chắn chứng đắc Niết-bàn.
“A-nan, ví như tro lửa đã tắt từ lâu, đã nguội
lạnh, có một người thêm đầy cỏ khô rồi chất củi khô lên; này
A-nan, ý ông nghĩ sao, tâm nguội lạnh há có thể bốc cháy được
chăng?”
Tôn giả A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, không thể được”.
“Cũng vậy, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí
quán sát tâm người khác. Ta không thấy người này có chút hắc
nghiệp dù bằng một sợi lông. Người này tuyệt đối chỉ có pháp
thiện dẫy đầy, cùng với lạc, được lạc báo, chắc chắn sanh vào
lạc xứ mà được trường thọ. Như vậy, người này ngay trong đời
này chắc chắn chứng đắc Niết-bàn. Này A-nan, đó gọi là Đại
nhân căn trí của Như Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc
rễ của các pháp như vậy.
“A-nan, ba hạng người nói trên kia, hạng người
thứ nhất đạt pháp thanh tịnh, hạng người thứ hai đạt pháp suy
thoái, hạng người thứ ba khi thân hoại mạng chung chắc chắn
đến chỗ ác, sanh vào địa ngục.
“Ba hạng người Ta nói sau này, hạng người thứ
nhất đạt pháp suy thoái, hạng người thứ hai đạt pháp thanh
tịnh, hạng người thứ ba ngay trong đời này chứng đắc Niết-bàn.
“A-nan, Ta đã giảng thuyết cho ông nghe về Đại
nhân căn trí. Như đấng Tôn sư thương yêu đệ tử, phát khởi lòng
đại từ đại bi, mong muốn cho được sự lợi ích và phước lành,
được an ổn khoái lạc, điều đó Ta đã thực hiện rồi, các người
cũng phải tự mình thực hiện. Hãy đến rừng vắng sơn lâm, dưới
gốc cây hoặc một chỗ nào yên tĩnh mà thiền tịnh tư duy, chớ
nên phóng dật. Hãy chuyên cần tinh tấn, đừng để về sau phải
hối hận. Đó là lời răn dạy của Ta! Đó là lời khuyên bảo của
Ta!”
Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan sau khi
nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
A.6.62 Udaka (Purisindriyañāa-sutta). Biệt dịch, No.58.
-
[02] Bạt-kì-sấu.
Pāli: Vajjīsu, giữa những người Vajji.
-
[03] A-nô-ba; địa
danh này chưa rõ. Bản Pāli: Phật tại Daakappa, một ngôi làng
của người Kosala.
-
[04] A-di-la-hòa-đế.
Pāli: Aciravatī, Tôn giả Ananda và một số đông Tỳ-kheo làng
Daakappa đến tắm ở đây.
-
[05]
Đề-bà-đạt-đa,Tỳ-kheo chống Phật. Pāli: Devadatta.
-
[06] Theo bản Pāli,
Tỳ-kheo này hoài nghi, Phật tự biết hay nhờ chư Thiên nói cho
biết.
-
[07] Hán: niên thiếu
bất tự tri. Pāli: bālo avyatto, ngu si không biết gì. Bāla, có
nghĩa con nít, cũng có nghĩa ngu si, cho nên Hán dịch niên
thiếu (?).
-
[08] Có lẽ vì
Đề-ba-đạt-đa là anh em chú bác ruột.
-
[09] Đại nhân căn
trí. Pāli: purisindriyaññāṇa.
-
[10] Suy thoái pháp.
Pāli: parihāna-dhamma