- 10. PHẨM LÂM
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa Thích-ki-sấu, ở tại
Ca-duy-la-vệ[02].
Bấy giờ sau khi đêm tối qua, vào buổi sáng sớm,
Đức Thế Tôn đắp y, ôm bát, rửa tay chân, lấy Ni-sư-đàn vắt lên
vai, đi đến rừng trúc[03]
trong chùa Thích-ca[04],
rồi Ngài đi vào Đại lâm[05],
đến dưới một gốc cây, trải Ni-sư-đàn ngồi kiết già.
Khi ấy, Chấp Trượng Thích[06]
chống gậy mà đi, sau bữa cơm trưa, ung dung tìm đến chỗ Phật,
cùng nhau chào hỏi, chống gậy đứng trước Đức Phật, rồi hỏi Đức
Thế Tôn rằng:
“Sa-môn Cù-đàm, Ngài lấy gì làm tông chỉ? Và
thuyết giảng những pháp gì?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này người họ Thích, nếu tất cả chư Thiên, Ma,
Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ ngườøi đến trời trên thế gian này
đều không đấu tranh[07],
tu tập ly dục, thanh tịnh phạm hạnh, lìa bỏ siểm khúc, dứt trừ
hối[08],
không đắm trước nơi hữu, phi hữu, cũng không có tưởng[09].
Đó là tông chỉ của Ta. Pháp Ta thuyết giảng cũng như vậy”.
Khi ấy, Chấp Trượng Thích nghe Đức Phật nói,
không cho là phải, không cho là trái. Chấp Trượng Thích lắc
đầu rồi bỏ đi.
Bấy giờ, sau khi Chấp Trượng Thích bỏ đi không
lâu, vào lúc xế, Đức Thế Tôn từ chỗ thiền tọa đứng dậy, đi vào
giảng đường, đến trước chúng hội Tỳ-kheo, trải tọa cụ ngồi
xuống, rồi nói với các Tỳ-kheo:
“Hôm nay, vào buổi sáng sớm, Ta đắp y, ôm bát
vào Ca-duy-la-vệ khất thực. Sau khi ăn xong, Ta thâu y bát,
rửa tay chân, lấy Ni-sư-đàn vắt lên vai, đến khóm trúc trong
chùa Thích-ca, rồi Ta đi vào Đại lâm ấy, đến dưới một gốc cây,
trải Ni-sư-đàn rồi ngồi kiết già. Khi ấy, có Chấp Trượng Thích
chống gậy mà đi, sau bữa cơm trưa ung dung tìm đến chỗ Ta,
cùng nhau chào hỏi, chống gậy đứng trước mặt Ta rồi hỏi Ta
rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm, Ngài lấy gì làm tông chỉ và thuyết giảng
những pháp gì?’ Ta đáp, ‘Này người họ Thích, nếu tất cả chư
Thiên, Ma, phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ ngườøi đến trời trên thế
gian này đều không đấu tranh, tu tập ly dục, thanh tịnh phạm
hạnh, lìa bỏ siểm khúc, dứt trừ hối, không đắm trước nơi hữu,
phi hữu, cũng không có tưởng. Đó là tông chỉ của Ta. Pháp Ta
thuyết giảng cũng như vậy’. Khi ấy Chấp Trượng Thích nghe Ta
nói không cho là phải, cũng không cho là trái. Chấp Trượng
Thích lắc đầu rồi bỏ đi”.
Khi ấy có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy,
trịch áo bày vai phải, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, sao gọi là tất cả những Thiên,
Ma, phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ ngườøi đến trời trên thế gian
này đều không đấu tranh, tu tập ly dục, thanh tịnh phạm hạnh,
lìa bỏ siểm khúc, dứt trừ hối, không đắm trước nơi hữu, phi
hữu, cũng không có tưởng?”
Đức Thế Tôn nói:
“Tỳ-kheo, nếu người đối với tư niệm nhân đó mà
xuất gia học đạo[10],
tu tập tư tưởng, và đối với pháp hiện tại, quá khứ và vị lai,
mà không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ, đó gọi là
tận cùng sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử,
kiến sử, nghi sử[11],
đấu tranh, tắng tat, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi
và vô lượng pháp ác bất thiện khác[12],
đó gọi là tận cùng sự khổ”.
Đức Phật nói như vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa.
Khi ấy các Tỳ-kheo liền suy nghĩ rằng: ‘Này chư
Hiền, nên biết, Đức Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt,
không phân biệt rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh
thất tĩnh tọa, ‘Nếu người đối với tư niệm nhân đó mà xuất gia
học đạo, tu tập tư tưởng, và đối với pháp hiện tại, quá khứ và
vị lai, mà không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ, đó
gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô
minh sử, kiến sử, nghi sử, đấu tranh, tắng tat, siểm nịnh, lừa
bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác bất thiện khác,
đó gọi là tận cùng sự khổ’.”
Rồi lại suy nghĩ rằng: “Này chư Hiền, ai có thể
phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt ấy?”
Rồi họ lại suy nghĩ: “Chỉ có Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên thường được Đức Thế Tôn và các vị Phạm hạnh có
trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể phân biệt rộng
rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt ấy. Này chư Hiền,
hãy cùng nhau đi đến chỗ Tôn giả Đại Ca-chiên-diên yêu cầu
ngài nói nghĩa này. Nếu đượïc Tôn giả Đại Ca-chiên-diên phân
biệt cho thì chúng ta sẽ khéo léo nhận lãnh rồi ghi nhớ”.
Rồi thì các Tỳ-kheo đi đến chỗ của Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên, cùng nhau chào hỏi rồi ngồi một bên mà bạch
rằng:
“Thưa Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, nên biết, Đức
Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng
rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa.
“Tỳ-kheo, nếu người đối với tư niệm nhân đó mà xuất gia học
đạo, tu tập tư tưởng, và đối với pháp hiện tại, quá khứ và vị
lai, mà không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ, đó
gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô
minh sử, kiến sử, nghi sử, đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa
bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác bất thiện khác,
đó gọi là tận cùng sự khổ’. Chúng tôi liền suy nghĩ rằng: ‘Này
chư Hiền, ai có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn
vừa nói vắn tắt?’ Rồi chúng tôi lại suy nghĩ: ‘Chỉ có Tôn giả
Đại Ca-chiên-diên thường được Đức Thế Tôn và các vị phạm hạnh
có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể phân biệt
rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn nói vắn tắt ấy. Ngưỡng mong
Tôn giả Đại Ca-chiên-diên thương xót mà giảng rộng cho!”
Bấy giờ Tôn giả Đại Ca-chiên-diên bảo rằng:
“Này chư Hiền, hãy nghe tôi nói ví dụ này.
Người có trí tuệ nghe dụ này sẽ hiểu rõ nghĩa lý.
“Này chư Hiền, ví như có người tìm lõi cây. Vì
muốn tìm lõi cây nên người ấy cầm búa vào rừng. Người ấy thấy
cây đại thọ đã thành rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa và lõi.
Người ấy không đụng đến rễ, thân, cành, lõi, mà chỉ đụng đến
nhánh và lá. Những điều chư Hiền nói cũng giống như vậy. Đức
Thế Tôn đang ở đây mà chư Hiền lại bỏ Ngài đến tôi để hỏi
nghĩa này. Vì sao vậy? Này chư Hiền, nên biết, Đức Thế Tôn là
Bậc có mắt, là Bậc có trí. Ngài là Pháp, là Bậc Pháp Chủ, là
Pháp tướng, là Bậc nói nghĩa chân đế, hiển hiện tất cả nghĩa.
Do đó chư Hiền nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn mà hỏi nghĩa này,
rằng: ‘Bạch Thế Tôn, điều này là thế nào? Điều này có nghĩa
gì?’ Nếu như Đức Thế Tôn có nói gì thì chư Hiền hãy khéo léo
nhận lãnh và ghi nhớ”.
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch rằng:
“Đúng vậy, thưa Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, Đức
Thế Tôn là bậc có mắt, là bậc có trí. Ngài là nghĩa, là Pháp,
là bậc Pháp chủ, là bậc Pháp tướng, là bậc nói nghĩa chân đế,
hiển hiện tất cả nghĩa. Do đó chúng tôi nên đi đến chỗ Đức Thế
Tôn mà hỏi nghĩa này, ‘Bạch Thế Tôn, điều này là thế nào? Điều
này có nghĩa gì?’ Nếu như Đức Thế Tôn có nói gì thì chúng tôi
khéo léo nhận lãnh rồi ghi nhớ. Nhưng thưa Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên, Ngài thường được Đức Thế Tôn và các vị phạm
hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể phân
biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt ấy.
Ngưỡng mong Tôn giả Đại Ca-chiên-diên thương xót mà giảng rộng
cho”.
Tôn giả Đại Ca-chiên-diên bảo các Tỳ-kheo:
“Vậy, này chư Hiền, xin hãy nghe tôi nói”.
“Này chư Hiền, duyên nhãn và sắc mà sanh nhãn
thức. Ba sự này cùng tụ hội liền có xúc. Do duyên xúc nên có
cảm thọ. Có cảm thọ thì có tưởng. Có tưởng thì có tư duy. Có
tư duy thì có niệm. Có niệm thì có phân biệt[13].
“Tỳ-kheo do suy niệm như vậy nên xuất gia học
đạo, tu tập tư tưởng, trong đó đối với pháp hiện tại, quá khứ
và vị lai không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ; đó
gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô
minh sử, kiến sử, đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói
dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác bất thiện khác. Đó gọi
là tận cùng sự khổ.
“Với tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Duyên ý và
pháp mà phát sanh ý thức. Ba sự cùng tụ hội liền có xúc. Do
duyên xúc nên có cảm thọ. Có cảm thọ thì có tưởng. Có tưởng
thì có tư duy. Có tư duy thì có suy niệm. Có suy niệm thì có
phân biệt. Tỳ-kheo do niệm ấy mà xuất gia học đạo, tu tập tư
tưởng, trong đó đối với pháp hiện tại, quá khứ và vị lai không
ái, không lạc, không đắm trước, không trụ. Đó gọi là tận cùng
sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử,
đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi
và vô lượng pháp ác bất thiện khác. Đó gọi là tận cùng sự khổ.
“Này chư Hiền, Tỳ-kheo trừ con mắt, trừ sắc,
trừ nhãn thức mà có xúc, mà giả thiết có xúc, điều này không
thể có. Nếu không giả thiết có xúc mà giả thiết có cảm thọ,
điều ấy kkhông xảy ra. Nếu không giả thiết cảm thọ mà giả
thiết có suy niệm rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, điều
này không thể có. Với tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Trừ ý,
trừ pháp, trừ ý thức mà có xúc, giả thiết có xúc, điều này
không thể có. Nếu không giả thiết xúc mà có thọ, giả thiết có
thọ, điều này không thể có. Nếu không giả thiết thọ mà giả
thiết có suy niệm, rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, điều
này không thể có.
“Này chư Hiền, do con mắt, do sắc, do nhãn thức
mà có xúc, giả thiết có xúc, điều này có thật. Do giả thiết
xúc mà có thọ, giả thiết có thọ, điều này có thật. Do giả
thiết thọ mà giả thiết có suy niệm rồi xuất gia học đạo, tu
tập tư tưởng, điều này có thật. Do giả thiết thọ mà giả thiết
có suy niệm rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, điều này có
thật.
“Với tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Do ý, do
pháp, do ý thức mà có xúc, chủ trương có xúc, điều này có
thật. Do chủ trương xúc mà có cảm thọ, giả thiết có cảm thọ,
điều này có thật. Do giả thiết có cảm thọ mà giả thiết có suy
niệm, rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, điều này có thật.
“Này chư Hiền, Đức Thế Tôn nói nghĩa này một
cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi mà từ chỗ ngồi đứng dậy
đi vào tịnh thất tĩnh tọa, ‘Tỳ-kheo, nếu người đối với tư niệm
nhân đó mà xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, và đối với pháp
hiện tại, quá khứ và vị lai, mà không ái, không lạc, không đắm
trước, không trụ, đó gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử, nhuế sử,
hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, nghi sử, đấu tranh, tắng
tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng
pháp ác bất thiện khác, đó gọi là tận cùng sự khổ’. Đức Thế
Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi.
Tôi đã diễn rộng câu ấy, văn ấy như vậy.
“Này chư Hiền, có thể đi đến chỗ Phật, tường
trình lại đầy đủ, nếu đúng như nghĩa mà Đức Thế Tôn muốn nói,
chư Hiền hãy nhận lãnh và ghi nhớ”.
Khi ấy các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên nói, khéo ghi nhớ, tụng đọc, từ chỗ ngồi đứng
dậy, nhiễu quanh Tôn giả Đại Ca-chiên-diên ba vòng rồi đi đến
chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, ngồi xuống một bên mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, vừa rồi Đức Thế Tôn nói nghĩa
này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi, rồi từ chỗ
ngồi đứng dậy, đi vào tịnh thất nghỉ ngơi. Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên đã đem những câu này, văn này mà diễn rộng ra”.
Đức Thế Tôn nghe xong, khen rằng:
“Lành thay! Lành thay! Trong hàng đệ tử của Ta,
có vị là bậc có mắt, có trí, có pháp, có nghĩa. Vì sao? Vì khi
Tôn sư nói nghĩa này cho họ từ một cách vắn tắt, không phân
biệt một cách rộng rãi, mà vị đệ tử kia đã diễn rộng ra những
câu ấy, văn ấy. Đúng như những gì Tỳ-kheo Đại Ca-chiên-diên đã
nói, các thầy hãy nên nhận lãnh rồi ghi nhớ như vậy. Vì sao
vậy? Vì nói, quán nghĩa phải như vậy.
“Này các Tỳ-kheo, ví như có người do đi đến chỗ
rừng vắng, trong rừng sâu, giữa những cây cối, bỗng nhiên gặp
được bánh mật[14],
vị ấy ăn, thưởng thức vị ngọt; thiện nam tử cũng giống như
vậy, ở trong Pháp Luật chân chánh này của Ta, tùy theo những
gì được quán sát, vị ấy thưởng thức được vị ngọt của nó. Quán
sát con mắt, thưởng thức được vị ngọt. Quán sát tai, mũi,
lưỡi, thân, quán sát ý thưởng thức được vị ngọt”.
Bấy giờ Tôn giả A-nan đang cầm quạt hầu Đức Thế
Tôn, Tôn giả A-nan liền chắp tay hướng Phật mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Pháp này tên gọi là gì? Chúng
con phải phụng trì như thế nào?”
Đức Thế Tôn nói:
“Này A-nan, Pháp này tên là ‘Mật hoàn dụ’[15],
ông hãy nên nhận lãnh và ghi nhớ”.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Các ngươi hãy nhận lãnh pháp ‘Mật hoàn dụ’
này, phải thường tụng đọc. Vì sao vậy? Này các Tỳ-kheo, pháp
“Mật hoàn dụ” này có pháp, có nghĩa, là gốc của phạm hạnh, dẫn
đến trí thông, dẫn đến giác ngộ, đưa đến Niết-bàn. Nếu là
thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ
gia đình, sống không gia đình học đạo, thì hãy nên khéo léo
nhận lãnh, ghi nhớ pháp ‘Mật hoàn dụ’ này”.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các
Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
M.18 Madhupiika-sutta. Biệt dịch No.125 (9).
-
[02] Thích-ki-sấu,
Ca-duy-la-vệ. Pāli: sakkesu viharati nigrodhārāme.
-
[03] Nghệ trúc lâm.
Bản Pāli nói Phật ngồi nghỉ trưa dưới một gốc tre non
(Beluvahika), tre non.
-
[04] Thích-ca tự, chỉ
tinh xá trong vườn Ni-câu-loại (Nigrodhārāma).
-
[05] Đại lâm. Pāli:
Mahāvana, khu rừng gần Kapilavatthu.
-
[06] Chấp Trượng
Thích. Pāli: Daapānī Sakka, con trai của Anjana và Yosadharā,
em của Hoàng hậu Mayā và Pajāpati, tức cậu ruột của Phật.
Truyền thuyết Bắc phương nói ông là cha vợ của Thái tử
Tất-đạt-đa.
-
[07] Đấu tranh. Pāli:
viggayha, sự tranh luận, tranh cãi.
-
[08] Trừ hối. Pāli:
chinnakukkucca, dứt trừ sự ác tác, không còn hối quá.
-
[09] Hán: (...) diệc
vô tưởng. Pāli: (...) ta brahma ... bhavābhave vītataha saññā
nānusenti, các tưởng không tiềm phục nơi người Bà-la-môn mà
tham ái, ái hữu và phi hữu đã bị loại trừ. Không nên lầm ở đây
Phật chủ trương “vô tưởng”.
-
[10] Nhân sở nhân
niệm. Pāli nói: Yatonidāna purisa papañcasaññā-sakhā
samudācaranti ettha ce natthi abhinanditabba, do nhân duyên mà
các hý luận vọng tưởng hiện hành nơi con người, ở đó nếu không
có gì đang hoan hỷ... Thử dựng lại đoạn Hán thành Pāli để xem
có phải Hán và Pāli khác nhau do sự truyền khẩu hay không:
yatonidāna purisa pabbajjāsaññāparicita...
-
[11] Các sử ở đây
cũng gọi là tùy miên.
-
[12] Liệt kê của
Pāli: rāga (tham trước), paigha (sân), dihi (kiến), vicikicchā
(nghi), māna (mạn), bhavarāga (hữu ái), avijjā (vô minh), các
tùy miên (anusayāni) này bị đoạn tận.
-
[13] Nhược sở niệm
tiện phân biệt. Pāli: ya vitakketi, ta papañceti, có tầm
(niệm) cái gì, thì có hý luận cái đó.
-
[14] Mật hoàn. Pāli:
madhu-piika.
-
[15] Pāli:
madhupiikapariyāya, pháp môn mật hoàn.