- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 11. PHẨM ĐAI
- (Phần Đầu)
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp
cô độc.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Chính Ta ngày trước ra đi xuất gia học đạo là ra đi từ chỗ ưu
du, từ chỗ thong dong nhàn nhã, từ đời sống cực kỳ êm dịu[02].
Khi Ta còn ở nhà, phụ vương Duyệt-đầu-đàn[03]
tạo cho Ta đủ thứ cung điện; cung điện để ở vào mùa Xuân, cung
điện để ở vào mùa Hạ, cung điện để ở vào mùa Đông.
“Bởi Ta thích du ngoạn nên cách điện không xa, người lại tạo
không biết bao nhiêu là ao sen[04]:
ao hoa sen xanh, ao hoa sen hồng, ao hoa sen đỏ, ao hoa sen
trắng. Trong các ao đó trồng đủ các loại hoa dưới nước: hoa sen
xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ và hoa sen trắng. Nước luôn luôn
đầy, hoa luôn luôn trổ, mà những người sai dịch chăm sóc không
thông suốt được hết.
“Bởi Ta thích du ngoạn nên trên bờ ao trồng các loại hoa: hoa
Tu-ma-na, hoa Bà-sư, hoa Chiêm-bặc, hoa Tu-kiền-đề, hoa
Ma-đầu-kiền-đề, hoa A-đề-mưu-đa, hoa Ba-la-đầu[05].
“Bởi Ta thích du ngoạn nên người sai bốn người tắm rửa cho Ta.
Tắm rửa cho Ta rồi lại xoa hương chiên-đàn đỏ vào khắp thân Ta.
Xoa hương vào thân Ta rồi lại khoác vào mình Ta chiếc áo lụa
thật mới. Trên, dưới, trong, ngoài đều mới mẻ. Suốt ngày đêm
luôn luôn cầm lọng[06]
che cho Ta, không để cho Thái tử đêm phải nhiễm sương, ngày bị
nắng háp.
“Như nhà dân thường được ăn đại mạch thô, cơm gạo tẻ, cháo đậu,
gừng[07],
cho đó là đồ ăn bậc nhất, nhưng người sai dịch thấp nhất của phụ
vương Duyệt-đầu-đàn của Ta lại cho như vậy là rất dở, chỉ ăn nếp
trắng[08]
và hào soạn mới cho là đồ ăn bậc nhất.
“Lại nữa, nếu có cầm thú nơi đồng ruộng, loại cầm thú ngon nhất
như Đề-đế-la-hòa-tra, Kiếp-tân-xà-la, Hề-mễ-hà, Lê-nê-xa,
Thi-la-mễ[09].
Các loại cầm thú nơi đồng ruộng, loại cầm thú ngon nhất như vậy
Ta thường được ăn.
“Ta nhớ khi xưa, lúc còn ở với phụ vương Duyệt-đầu-đàn, suốt bốn
tháng hạ, mỗi khi lên trên chánh điện đều không có người nam;
chỉ toàn là kỹ nữ để cùng vui chơi, không hề trở xuống.
“Rồi khi Ta muốn đến viên quán thì liền có ba mươi danh kỵ
thượng thặng được tuyển chọn với những hàng đại thuẫn đi dẫn
đường hộ tống trước sau, không kể những tiểu tiết khác.
“Ta có như ý túc đó[10]
và sự êm dịu cực kỳ này.
“Ta còn nhớ khi xưa, lúc Ta thăm ruộng[11],
người làm ruộng nghỉ ngơi trên đám ruộng, Ta đi đến dưới gốc cây
Diêm-phù ngồi kiết già, ly dục, ly pháp ác bất thiện, có giác,
có quán, hỷ lạc do viễn ly sanh, chứng đắc được Sơ thiền, thành
tựu và an trụ. Ta nghĩ rằng: ‘Phàm phu ngu si không đa văn, tự
có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh, nhưng thấy người tật
bệnh thì ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, mà không tự
quán sát mình’.
“Rồi Ta lại nghĩ: ‘Ta tự có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật
bệnh. Nếu Ta thấy người tật bệnh mà ghê tởm, khinh bỉ, không
yêu, không thích, Ta không nên như vậy, vì Ta cũng có trường hợp
này’. Quán sát như vậy rồi thì tâm cống cao phát khởi do không
có tật bệnh liền tự tiêu diệt.
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Phàm phu ngu si không đa văn, tự có sẵn sự
già, không thoát khỏi sự già, nhưng thấy người già cả thì ghê
tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, mà không tự quán sát
mình’.
“Rồi Ta lại nghĩ: ‘Ta tự có sẵn sự già, không thoát khỏi sự già.
Nếu Ta thấy người già cả mà ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không
thích, Ta không nên như vậy, vì Ta cũng có trường hợp này’. Quán
sát như vậy rồi thì tâm cống cao phát khởi do chưa đến tuổi già
liền tự tiêu diệt.
“Phàm phu ngu si không đa văn, vì chưa bị tật bệnh nên tâm tự
cao, tự phụ, rồi do tham dục mà sanh si ám, không tu tập phạm
hạnh. Phàm phu ngu si không đa văn vì còn trẻ trung nên tự cao
tự phụ, không tu tập phạm hạnh, rồi tham dục mà sanh si ám. Phàm
phu ngu si không đa văn vì còn thọ mạng nên tự cao tự phụ, phóng
dật, rồi do tham dục mà sanh si ám, không tu tập phạm hạnh.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:
-
Tuổi già, tật bệnh
-
Và sự tử vong
-
Là pháp có sẵn
-
Người ngu khinh nhờn
-
Nếu ta miệt thị
-
Tưởng mình không vướng
-
Thật chẳng hợp lý
-
Vì đó sự thường
-
Ai hành như thế
-
Biết pháp ly sanh
-
Không bệnh, còn trẻ
-
Tưởng thọ kiêu căng
-
Đoạn trừ kiêu ngạo
-
Vô dục bình an
-
Ai hiểu như vậy
-
Nơi dục sợ gì!
-
Được vô hữu tưởng
-
Tịnh hạnh thanh tu.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan
hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán, quyển 29.
Tương đương Pāli: A.iii.38 Sukhumāla; A.ii.39 Mada.
-
[02] Tùng ưu du, thung
dung nhàn lạc, cực nhu nhuyến. Pāli: sukhumālo parasakhumālo
accanta sukhumālo, êm dịu, rất êm dịu, vô cùng êm dịu.
-
[03] Duyệt-đầu-đàn, tức
vua Tịnh Phạn, Pāli: Suddhodana.
-
[04] Hoa trì. Pāli:
Pokkharanī.
-
[05] Hoa Tu-ma-na, hoa
Bà-sư, hoa Chiêm-bặc, hoa Tu-kiền-đề, hoa Ma-đầu-kiền-đề, hoa
A-đề-mưu-đa, hoa Ba-la-đầu. Bản Pāli không đề cập các loại hoa
này.
-
[06] Tán cái, đúng ra
phải nói “bạch tán cái”, biểu hiện của vương gia. Pāli:
setachattā.
-
[07] Hán: thô quảng,
mạch phạn, đậu canh, khương thái. Pāli: kaājaka bhojana…
vilagadutiya, cháo tấm và sữa chua.
-
[08] Hán: canh lương.
-
[09] Đề-đế-la-hòa-tra;
Pāli: tittirapatta (?), một loại chim trĩ, hay chim chá-cô.
Kiếp-tân-xà-la, Pāli: kapinjala (?), chim trĩ. Hề-mễ-hà, Pāli:
hamsa (?), chim nhạn. Lê-nê-xa, Thi-la-mễ, không tìm ra tương
đương âm Pāli. Trong bản Pāli không đề cập các loại thực phẩm
này.
-
[10] Như ý túc(Pāli:
ihi-pāda), thường dịch là thần thông. Đây có nghĩa là quyền lực.
Đoạn trên. kể bốn quyền lực của thiếu niên con nhà phú quý: gấm
vóc lụa là, cung điện cho các mùa, vườn hoa tráng lệ, và thức ăn
thượng hạng.
-
[11] Xem cht.15
Kinh 32
|