- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
-
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Sắc là vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên
phi ngã[02].
Thọ[03]
cũng vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Tưởng cũng
là vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Hành cũng là
vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Thức cũng là vô
thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã.
“Như vậy là sắc vô thường; thọ, tưởng, hành,
thức vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Đa văn
Thánh đệ tử hãy nên quán sát như vậy, hãy tu tập bảy đạo phẩm[04],
vô ngại, chánh tư, chánh niệm[05].
Vị ấy đã biết như vậy, thấy như vậy rồi thì tâm giải thoát dục
lậu, tâm giải thoát hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi liền
biết mình đã giải thoát; biết đúng như thật rằng: ‘Sự sanh của
ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không
còn tái sanh nữa’. Nếu có chúng sanh và chín trú xứ của chúng
sanh[06],
cho đến cõi đệ nhất hữu với hành còn tàn dư, tức cõi hữu tưởng
vô tưởng xứ[07],
ở trong khoang trung gian đó, là bậc đệ nhất, là tối đại, là
tối thắng, là tối thượng, là tối tôn, là tối diệu; đó chính là
vị A-la-hán ở trong đời. Vì sao vậy? Vì trên đời này, A-la-hán
đã được an ổn khoái lạc.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:
-
Vô trước[08],
đệ nhất lạc;
-
Đoạn dục, ái đã trừ,
-
Vĩnh viễn lìa ngã mạn,
-
Bứt tung màn lưới si[09].
-
Người không bị lay chuyển,
-
Tâm chẳng bợn mảy trần,
-
Thế gian không đắm nhiễm,
-
Vô lậu, phạm hạnh thành,
-
Thấu triệt năm ấm thân,
-
Cảnh giới bảy thiện pháp[10],
-
Chốn đại hùng du hành,
-
Lìa xa mọi khủng bố,
-
Thành tựu báu thất giác[11],
-
Học đủ ba môn học,
-
Thượng bằng hữu tôn xưng[12];
-
Chân chánh con của Phật;
-
Thành tựu mười chi đạo[13].
-
Đại long định kiên cố,
-
Đấng bậc nhất trong đời;
-
Vị này không hữu ái;
-
Vạn cảnh không lay chuyển;
-
Giải thoát hữu tương lai;
-
Đoạn sanh, lão, bệnh, tử;
-
Lậu diệt, việc làm xong;
-
Phát khởi vô học trí[14];
-
Tận cùng tối hậu thân[15];
-
Tối thắng thanh tịnh hạnh;
-
Tâm không do bởi người[16];
-
Đối các phương trên dưới,
-
Vị ấy không hỷ lạc;
-
Thường rống tiếng sư tử,
-
Vô thượng giác trên đời.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
S.xxii.76 Arahanta-sutta.
-
[02] Hán: phi thần,
chỉ thần ngã, tự ngã, hay linh hồn. Xem cht.5 dưới.
-
[03] Hán: giác. Pāli:
vedāna.
-
[04] Bản Nguyên-Minh:
ba mươi bảy đạo phẩm. Bản Pāli, không có chi tiết này.
-
[05] Pāli: yad anattā
ta n’etam mama, n’eso aham asmi na m’eso attā, ti evam eta
yathābhūta sammappaññāya dahabba,“ cái gì là vô ngã, cần phải
được nhận thức một cách như thực bằng chánh trí rằng: cái này
không phải của ta; ta không phải là cái này; cái này không
phải là tự ngã của ta”.
-
[06] Hán: hữu tình
cư, chỗ chúng sanh cư ngụ. Pāli: sattāvasā.
-
[07] Hán: hữu tưởng
vô tưởng xứ hành dư đệ nhất hữu, chỉ Hữu đỉnh thiên, cõi cao
nhất trong tam hữu, tức cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tầng
thứ tư của vô sắc định. Pāli: yāvatā sattāvasā, yāvatā bhagga,
cho đến các cảnh vức của hữu tình, cho đến chóp đỉnh của (ba)
Hữu.
-
[08] Vô trước, dịch
nghĩa từ A-la-hán. Pāli: sukhino vata arahanta, A-la-hán thật
sự an lạc.
-
[09] Vô minh võng,
Pāli: mohajāla.
-
[10] Cảnh giới thất
thiện pháp. Pāli: sattasadhammagocarā, sở hành là bảy diệu
(chánh) pháp. Xem Tập dị 17 (Đại 26, tr.437a), “bảy diệu pháp:
tín, tàm,quý, tinh tấn, niệm, định, tuệ.”
-
[11] Thất bảo giác.
Pāli: Sattaratanā, ở đây chỉ bảy giác chi: trạch pháp, tinh
tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.
-
[12] Thượng bằng hữu.
Pāli: không rõ.
-
[13] Thập chi đạo,
tức mười vô học chi; Tập dị 20 (Đại 26, tr.452c): 1. Vô học
chánh kiến; ...; 8. Vô học chánh định; 9. Vô học chánh giải
thoát; 10. Vô học chánh trí. Pāli: dasahaga.
-
[14] Vô học trí.
Pāli: asekhañāā.
-
[15] Tối hậu thân.
Pāli: antimoya samussayo.
-
[16] Bất do tha, tự
tri, tự chứng ngộ, không do kẻ khác. Pāli: aparapaccāya, không
nương theo người khác.
|