-
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại Chiêm-ba, ở bên hồ
Hằng-già[02].
Bấy giờ là ngày mười lăm trong tháng, là ngày
Thế Tôn thuyết Tùng giải thoát, trải tọa ngồi trước chúng
Tỳ-kheo. Khi Đức Thế Tôn ngồi xong, liền nhập định và bằng tha
tâm trí Ngài quan sát tâm đại chúng. Khi quan sát tâm đại
chúng rồi, cho đến lúc hết buổi đầu hôm, Ngài vẫn ngồi im
lặng.
Bấy giờ có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy,
trịch vai, sửa y chắp tay hướng về Đức Phật thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, đã hết buổi đầu hôm, Phật và
chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã lâu, mong Đức Thế Tôn nói
thuyết Tùng giải thoát.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn im lặng không trả lời.
Thế rồi, cho đến phần giữa đêm, Đức Thế Tôn vẫn
ngồi im lặng. Tỳ-kheo kia lại lần nữa, từ chỗ ngồi đứng dậy,
trịch vai sửa y, chắp tay hướng về Đức Phật và thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, buổi đầu hôm đã qua, phần giữa
đêm cũng sắp hết; Phật và chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã
lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết Tùng giải thoát.”
Đức Thế Tôn lại một lần nữa không trả lời.
Thế rồi, cho đến phần cuối đêm, Đức Thế Tôn vẫn
ngồi im lặng. Tỳ-kheo kia lại lần thứ ba từ chỗ ngồi đứng dậy,
trịch vai sửa y, chắp tay hướng về Đức Thế Tôn mà thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, buổi đầu hôm đã qua, phần giữa
đêm cũng chấm dứt, rồi buổi cuối đêm cũng sắp hết, trời gần về
sáng, không bao lâu nữa, mặt trời sẽ mọc; Phật và chúng
Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã quá lâu, mong Đức Thế Tôn nói
thuyết Tùng giải thoát.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo vị Tỳ-kheo kia:
“Trong chúng này có một thầy Tỳ-kheo làm đã
việc bất tịnh.”
Lúc đó Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng đang ở
trong chúng. Rồi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền suy nghĩ thế
này: “Vì Tỳ-kheo nào mà Đức Thế Tôn nói trong chúng này có một
thầy Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh? Ta nên nhập định có hình
thức như thế, nhân trong định có hình thức như thếá, bằng tha
tâm trí mà quan sát tâm niệm đại chúng.”
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nhập định có hình
thức như thế, nhân trong định có hình thức như thế, bằng tha
tâm trí mà quan sát tâm niệm đại chúng.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền biết vị Tỳ-kheo
mà vì vị ấy Đức Thế Tôn nói trong chúng này có một thầy
Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh.
Rồi thì, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên xuất định,
đi đến trước vị Tỳ-kheo ấy, nắm tay kéo đi, mở cửa lôi ra bên
ngoài mà nói:
“Này người ngu si, hãy đi xa đi, đừng sống ở
đây, không được trở lại hội họp với đại chúng Tỳ-kheo, từ nay
trở đi ông không phải là Tỳ-kheo nữa.”
Ngài đóng cửa, gài chốt then lại, rồi trở về
chỗ Đức Phật, cúi đầu sát lạy chân Phật, rồi ngồi sang một bên
mà thưa:
“Vị Tỳ-kheo mà vì vị ấy Đức Thế Tôn nói trong
chúng này có một Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh; con đã đuổi vị
ấy đi rồi. Bạch Thế Tôn, buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm
cũng chấm dứt, rồi buổi cuối đêm cũng sắp hết, trời gần về
sáng, không bao lâu nữa, mặt trời sẽ mọc; Phật và chúng
Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã quá lâu, mong Đức Thế Tôn nói
thuyết Tùng giải thoát.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Đại Mục-kiền-liên, kẻ ngu si sẽ mắc đại
tội nếu gây phiền nhiễu cho Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo. Này
Đại Đại Mục-kiền-liên, nếu Đức Như Lai ở giữa chúng bất tịnh
mà thuyết Tùng giải thoát thì đầu người kia sẽ vỡ thành bảy
mãnh. Do đó, này Đại Mục-kiền-liên, từ nay về sau các thầy hãy
thuyết Tùng giải thoát, Đức Như Lai không thuyết Tùng giải
thoát nữa. Vì sao như thế?[03]
“Vì như vầy, này Đại Mục-kiền-liên, hoặc có
người ngu si khi vào lúc ra đều với chánh tri[04];
khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng đều khéo phân biệt quán
sát; nghi dung chững chạc, khoác tăng-già-lê ngay ngắn; cầm y,
bát chỉnh tề[05];
đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ
ràng, tợ như bậc Phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của bậc
Phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.
“Này Đại Mục-kiền-liên, nếu các bậc Phạm hạnh
biết được kẻ ấy, sẽ nghĩ rằng: ‘Đây là sự ô uế đối với Sa-môn,
là sự ô nhục đối với Sa-môn, là sự đáng ghét đối với Sa-môn,
là gai nhọn đối với Sa-môn’. Sau khi biết rồi liền cùng nhau
tẫn xuất người ấy[06].
Vì sao vậy? Vì không muốn các bậc Phạm hạnh phải bị nhiễm ô.
“Này Đại Mục-kiền-liên, ví như trong ruộng lúa
dé, hoặc ruộng lúa tẻ đang tươi tốt của Cư sĩ kia có sanh loại
cỏ tên là cỏ uế mạch[07].
Cỏ này có rễ, thân, đốt, lá và hoa thảy đều giống hệt như cây
lúa tẻ. Nhưng sau khiù kết hạt thìø người Cư sĩ kia thấy được,
liền suy nghĩ rằng: ‘Đây là sự ô nhục đối với lúa tẻ, là gai
nhọn đáng ghét đối với lúa tẻ’. Sau khi biết rồi, Cư sĩ kia
liền nhổ quăng đi hết. Vì sao vậy? Vì không muốn giống lúa tẻ
đích thật phải bị ô nhiễm.
“Cũng vậy, này Đại Mục-kiền-liên, hoặc có người
ngu si khi vào lúc ra đều với chánh tri; khi co lúc duỗi, khi
cúi lúc ngẩng đều khéo phân biệt quán sát; nghi dung chững
chạc, khoác tăng-già-lê ngay ngắn, cầm y, bát chỉnh tề; đi,
đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ
ràng, tợ như bậc Phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của bậc
Phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.
“Này Đại Mục-kiền-liên, nếu các bậc Phạm hạnh
biết được kẻ ấy, sẽ nghĩ rằng: ‘Đây là sự ô uế đối với Sa-môn,
là sự ô nhục đối với Sa-môn, là sự đáng ghét đối với Sa-môn,
là gai nhọn đối với Sa-môn’. Sau khi biết rồi liền cùng nhau
tẫn xuất người ấy. Vì sao vậy? Vì không muốn các bậc Phạm hạnh
phải bị nhiễm ô.
“Này Đại Mục-kiền-liên, vì như đến mùa thu,
người Cư sĩ kia đem giê lúa. Từ trên cao, lúa được đổ từ từ
xuống. Nếu là hạt lúa chắc thì nằm lại, còn lúa lép hay trấu
thì sẽ theo gió bay đi. Sau đó người Cư sĩ kia liền cầm chỗi
quét dọn sạch sẽ. Vì sao vậy? Vì không muốn hạt lúa dé chắc
thật phải bị ô tạp.
“Cũng vậy, này Đại Mục-kiền-liên, hoặc có người
ngu si khi vào lúc ra đều với chánh tri; khi co lúc duỗi, khi
cúi lúc ngẩng đều khéo phân biệt quán sát; nghi dung chững
chạc, khoác tăng-già-lê ngay ngắn, cầm y, bát chỉnh tề; đi,
đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ
ràng, tợ như bậc Phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của bậc
Phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.
“Này Đại Mục-kiền-liên, nếu các bậc Phạm hạnh
biết được kẻ ấy, sẽ nghĩ rằng: ‘Đây là sự ô uế đối với Sa-môn,
là sự ô nhục đối với Sa-môn, là sự đáng ghét đối với Sa-môn,
là gai nhọn đối với Sa-môn’. Sau khi biết rồi liền cùng nhau
tẫn xuất người ấy. Vì sao vậy? Vì không muốn các bậc Phạm hạnh
phải bị nhiễm ô.
“Này Đại Mục-kiền-liên, ví như người Cư sĩ kia
muốn có nước suối chảy đến nên làm máng dẫn nước. Người ấy cầm
búa vào rừng, gõ vào thân các cây. Nếu cây có lõi cứng thì
tiếng phát ra nhỏ, còn cây rỗng ruột thì tiếng phát ra lớn.
Sau khi biết rõ, người Cư sĩ kia liền chặt cây ấy đem về làm
máng dẫn nước.
“Cũng vậy, này Đại Mục-kiền-liên, hoặc có người
ngu si khi vào lúc ra đều với chánh tri; khi co lúc duỗi, khi
cúi lúc ngẩng đều khéo phân biệt quán sát; nghi dung chững
chạc, khoác tăng-già-lê ngay ngắn, cầm y, bát chỉnh tề; đi,
đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ
ràng, tợ như bậc Phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của bậc
Phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.
“Này Đại Mục-kiền-liên, nếu các bậc Phạm hạnh
biết được kẻ ấy, sẽ nghĩ rằng: ‘Đây là sự ô uế đối với Sa-môn,
là sự ô nhục đối với Sa-môn, là sự đáng ghét đối với Sa-môn,
là gai nhọn đối với Sa-môn’. Sau khi biết rồi liền cùng nhau
tẫn xuất người ấy. Vì sao vậy? Vì không muốn các bậc Phạm hạnh
phải bị nhiễm ô.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói bài tụng rằng:
- Cùng tập
hội, nên biết,
- Ác dục,
tắng, tật, nhuế[08]
- Che giấu,
hận, keo kiệt[09],
- Tật đố,
siễm, khi cuống;
- Trong
chúng, giả đạo đức;
- Lén lút
xưng Sa-môn,
- Âm thầm
làm việc ác;
- Ác kiến,
không thủ hộ;
- Khi dối
cùng nói láo.
- Nên biết,
người như vậy,
- Tập chúng
đừng cho vào;
- Tẫn xuất,
không sống chung.
- Chúng dối
trá, láo khoét;
- Chưa ngộ
nói đã ngộ.
- Biết thời,
tu tịnh hạnh,
- Đuổi
chúng, tránh xa chúng.
- Hãy cùng
người thanh tịnh,
- Sống hòa
hợp với nhau;
- Như vậy sẽ
an ổn,
- Và tận
cùng sự khổ.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli A. Viii.10. Kāraava-sutta; A, viii.20 Uposatha Biệt
dịch, No.64 Chiêm-ba Tỳ-kheo Kinh, Pháp Cự dịch. Tham chiếu
kinh số 37 trên.
-
[02] Xem các cht.
liên hệ ở kinh số 37 trên.
-
[03] Từ đây trở
xuống tương đương Pàli A. Viii.10 đã dẫn. Bản Pāli bắt đầu
bằng sự kiện hai Tỳ-kheo nói xấu nhau, và khi biết được, Đức
Thế Tôn nói như trong bản Hán này.
-
[04] Chánh tri,
Pāli: sampajāna, biết rõ mình đang làm gì.
-
[05] Tăng-già-lê
cập chư y bát, Pāli: saghāīpattacīvara, chỉ ba y (gồm
tăng-già-lê) và bình bát.
-
[06] Tẫn khí.
-
[07] Hán: uế mạch.
-
[08] Tắng, tật,
nhuế, ghét, ganh tị, thù nghịch.
-
[09] Bất ngữ kết,
hận, xan. Bất ngữ kết, Pāli: makkhā, che giấu tội lỗi.