Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ,
trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Người tu phạm hạnh có tám nạn[02],
tám phi thời[03].
Những gì là tám?
“Vào lúc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu,
xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến
tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy, thì
người ấy lúc bấy giờ đang sanh vào chốn địa ngục. Đó là nạn
thứ nhất đối với người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu,
xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến
tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy, thì
người ấy lúc bấy giờ đang sanh vào loài súc sanh, vào loài
ngạ quỷ, sanh vào cõi trời Trường thọ[04],
sanh ở xứ biên địa mọi rợ, không tín, vô ân, không biết báo
đáp, không có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Đó
là nạn thứ năm[05]
đối với người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu
xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến
tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy, thì
bấy giờ người ấy tuy sanh nhằm chốn văn minh[06]
nhưng lại điếc, câm, ú ớ như dê kêu[07],
dùng tay thay lời, không thể nói nghĩa thiện ác. Đó là nạn
thứ sáu, việc phi thời thứ sáu đối với người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu
xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến
tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy thì
bấy giờ người ấy tuy sanh nhằm chốn văn minh, không điếc,
không câm, không ú ớ như dê kêu, không dùng tay thay lời, có
thể nói nghĩa thiện ác, nhưng lại có tà kiến và điên đảo
kiến. Người ấy thấy như vầy và nói như vầy, ‘Không bố thí,
không trai tự, không chú thuyết, không có nghiệp thiện ác,
không có nghiệp báo của thiện ác, không có đời này đời khác,
không cha không mẹ, ở đời không có bậc chân nhân[08]
đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng[09],
tự tri, tự giác, tự tác chứng thế giới này và thế giới khác[10],
thành tựu an trụ’. Đó là nạn thứ bảy đối với người tu phạm
hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu
không xuất hiện ở thế gian, cũng không thuyết pháp đưa đến
tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều
Thiện Thệ dạy thì bấy giờ người ấy lại sanh nhằm chốn văn
minh, không điếc, không câm, không ú ớ như dê kêu, không
dùng tay thay lời, lại có thể nói nghĩa thiện ác và có chánh
kiến, không có điên đảo kiến. Người ấy thấy như vầy và nói
như vầy, ‘Có bố thí, có trai tự, cũng có chú thuyết, có
nghiệp thiện ác, có nghiệp báo của thiện ác, có đời này, có
đời khác, có cha, có mẹ, ở đời có bậc chân nhân, đi đến
thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự tri, tự giác, tự tác chứng
thế giới này và thế giới khác, thành tựu an trụ’. Đó là nạn
thứ tám, việc phi thời thứ tám đối với người tu phạm hạnh.
“Người tu phạm hạnh có một điều không nạn,
một việc đúng thời. Thế nào là một điều không nạn, một việc
đúng thời đối với người tu phạm hạnh? Lúc Như Lai Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật,
Chúng Hựu không xuất hiện ở thế gian, cũng không thuyết pháp
đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo,
những điều Thiện Thệ dạy, thì bấy giờ người ấy sanh nhằm
chốn văn minh, không điếc, không câm, không ú ớ như dê kêu,
không dùng tay thay lời, lại có thể nói nghĩa thiện ác, có
chánh kiến, không có điên đảo kiến. Người ấy thấy như vầy và
nói như vầy, ‘Có bố thí, có trai tự, cũng có chú thuyết, có
nghiệp thiện ác, có nghiệp báo của thiện ác, có đời này, có
đời khác, có cha, có mẹ, ở đời có bậc chân nhân, đi đến
thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự tri, tự giác, tự tác chứng
thế giới này và thế giới khác, thành tựu an trụ’. Đó là điều
không tai nạn, việc đúng thời đối với người tu phạm hạnh.”
Khi ấy Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:
- Nếu được
làm thân người,
- Pháp được
thuyết vi diệu,
- Mà không
chứng đạo quả,
- Tất không
phải gặp thời.
- Nói nhiều
nạn phạm hạnh;
- Người ở vào
đời sau,
- Nếu như gặp
phải thời,
- Điều quá
khó ở đời.
- Muốn được
lại thân người,
- Và nghe
pháp vi diệu;
- Cần phải
siêng năng học;
- Mình tự
thương mình thôi.
- Luận bàn,
nghe pháp lành;
- Chớ chần
chừ lỡ dịp.
- Nếu để mất
dịp này,
- Tất lo đọa
địa ngục.
- Nếu không
sanh gặp thời,
- Không được
nghe pháp lành;
- Như người
buôn mất của;
- Chịu sanh
tử không cùng.
- Nếu sanh
được thân người,
- Được nghe
pháp chánh thiện,
- Vâng theo
Thế Tôn dạy,
- Chắc chắn
sẽ gặp thời.
- Nếu đã gặp
thời rồi,
- Siêng tu
chánh pháp hạnh,
- Để tựu
thành pháp nhãn,
- Đấng Nhật
Thân đã nói.[11]
- Người ấy
thường tự giữ
- Tiến lên,
lìa các sử,
- Đoạn diệt
mọi kết sử,
- Hàng ma,
quyến thuộc ma;
- Người ấy
vượt thế gian,
- Đã diệt tận
các lậu.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: A.8.29 Akkhaā. Tham chiếu, No.125 (42.1) Tăng Nhất
36, “phẩm Bát Nạn” kinh số 1.
-
[02] Bát nạn.
Pāli: atth’ akkhaā, tám trường hợp không may mắn, không
gặp vận, bất hạnh.
-
[03] Phi thời.
Pāli: asamaya, không đúng lúc, trái thời.
-
[04] Trường thọ
thiên, chỉ Vô tưởng thiên. Pāli: dīghāyuka devanikāya.
-
[05] Trong này kể
gồm luôn cả súc sanh (tiracchānayoni), ngạ quỷ
(pettivisaya), Trường thọ thiên (dīghāyaka devanikāya), và
biên địa (paccantimesu janapadesu).
-
[06] Trung Quốc.
Pāli: majjhimesu janapadesu, chỉ những nước ở trung bộ
Ấn-độ.
-
[07] Như dương
minh. Pāli: eamūga, vừa điếc vừa câm.
-
[08] Chân nhân;
bản Pāli: samaabrāhmaā, Sa-môn Bà-la-môn.
-
[09] Thiện khứ
thiện hướng. Pāli: sammaggatā sammā paipannā, chánh hành,
chánh hướng , đi đúng hướng, đang hướng thẳng đến
Niết-bàn.
-
[10] Tự tri tự
giác... Pāli: ye imañca loka parañca loka saya abhiññā
sacchikatvā pavedeti, những vị tự mình bằng trí tuệ siêu
việt đã chứng nghiệm thế giới này và thế giới khác, rồi
tuyên bố.
-
[11] Nhật thân,
bà con của mặt trời, chỉ dòng họ Thích. Pāli:
ādiccabandhu.