-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở đời, người có tham dục mà lại bần cùng, phải
chăng là sự bất hạnh lớn?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu một người có tham dục, lại bần cùng, lại
mang nợ tài vật của người khác. Ở đời, người mang nợ tài vật
của người khác, phải chăng là đại bất hạnh?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Nếu một người có tham dục, mang nợ tài vật của
người khác mà không trả đúng hạn được, cứ hẹn rày, hẹn mai; ở
đời cứ khất nợ mãi, phải chăng là đại bất hạnh?”
Các thầy Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu một người có tham dục, cứ khất nợ mãi
không trả được, chủ nợ đến đòi; ở đời bị chủ nợ đòi, phải
chăng là đại bất hạnh?”
Các thầy Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Nếu chủ nợ đến đòi, mà người có tham dục kia
không thể trả được, chủ nợ cứ đến đòi mãi; ở đời bị chủ nợ đòi
mãi, phải chăng là đại bất hạnh?”
Các thầy Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Nếu chủ nợ cứ đòi mãi, nhưng kẻ tham dục kia
vẫn không thể trả được, liền bị chủ nợ bắt trói lại; ở đời bị
chủ nợ bắt trói lại, phải chăng là đại bất hạnh?”
Các thầy Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
“Đó là, ở đời, người có tham dục lại bần cùng
là đại bất hạnh. Ở đời, người có tham dục vay nợ tài vật của
người khác là đại bất hạnh. Ở đời, người có tham dục vay nợ
tài vật của người khác mà khất mãi là đại bất hạnh. Ở đời,
người có tham dục bị chủ nợ đòi nợ là đại bất hạnh. Ở đời,
người có tham dục bị chủ nợ đòi mãi là đại bất hạnh. Ở đời,
người có tham dục bị chủ nợ bắt trói là đại bất hạnh. Cũng
vậy, nếu ai đối với Thánh pháp mà không tin ở thiện pháp,
không giữ cấm giới, không nghe nhiều, không bố thí, không trí
tuệ; đối với thiện pháp, dù có nhiều kim ngân, lưu ly, thủy
tinh, ma ni, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đại
môi xa cừ, bích ngọc, xích thạch, tuyền châu, nhưng người ấy
vẫn là kẻ nghèo nàn cô thế. Như vậy, trong Thánh pháp của Ta,
gọi là sự bần cùng, bất thiện.
“Kẻ ấy thân làm việc ác, miệng nói ác và ý nghĩ
ác, như thế trong Thánh pháp của Ta gọi là sự vay nợ bất
thiện.
“Kẻ ấy muốn che giấu việc làm ác của thân,
không tự tỏ bày, không muốn nói ra, không thích bị quở trách,
không ưa theo điều phải. Muốn che giấu lời nói ác, ý nghĩ ác,
không tự tỏ bày, không muốn nói ra, không thích bị khiển
trách, không ưa theo điều phải, như thế trong Thánh pháp của
Ta gọi là sự khất nợ bất thiện.
“Kẻ ấy hoặc sống trong thôn ấp hay ở ngoài thôn
ấp, các người phạm hạnh thấy được bèn nói như thế này: ‘Này
chư Hiền, người này làm như thế, hành vi như thế, ác như thế,
bất tịnh như thế. Đó là cái gai của thôn ấp’. Kẻ ấy liền bào
chữa, ‘Này chư Hiền, tôi không làm như vậy, không có hành vi
như vậy, không ác như vậy, không bất tịnh như vậy, cũng không
phải là cái gai của thôn ấp’. Như thế, trong Thánh pháp của Ta
gọi là sự đòi nợ bất thiện.
“Kẻ ấy hoặc ở rừng vắng, hoặc ở núi non, dưới
gốc cây, hoặc ở chỗ vắng vẻ, nhưng vẫn niệm tưởng ba việc bất
thiện: dục, nhuế, hại. Như thế trong Thánh pháp của Ta gọi là
sự không ngớt đòi nợ bất thiện.
“Kẻ ấy thân đã làm việc ác, miệng đã nói lời ác
và ý đã nghĩ điều ác. Do đó, kẻ ấy khi thân hoại mạng chung
nhất định sanh vào chỗ ác, sanh trong địa ngục. Như thế, trong
Thánh pháp của Ta gọi là sự trói buộc của bất thiện.
“Ta không thấy có sự trói buộc nào đau khổ
bằng, nặng nề bằng, tàn khốc bằng, khó yêu nổi bằng sự trói
buộc trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ba sự trói buộc đau
khổ này chỉ có bậc Tỳ-kheo A-la-hán lậu tận mới biến tri và
diệt tận, nhổ phăng cội rễ, vĩnh viễn không còn tái sanh.”
Rồi Đức Thế Tôn nói tụng rằng:
- Kẻ nghèo khổ
ở đời
- Vay nợ của
người khác;
- Đã vay tiền
của rồi,
- Mắc nợ người
là khổ.
- Chủ nợ đến
đòi nợ,
- Nhân đấy bắt
trói lại;
- Bị trói thật
khổ thay,
- Thế gian vẫn
lạc dục.
- Trong Thánh
pháp cũng vậy;
- Nếu không có
chánh tín,
- Không tàm và
không quý,
- Thân làm điều
bất thiện,
- Miệng ý chẳng
kém gì,
- Che giấu
không nói ra,
- Không ưa lời
dạy phải,
- Giả sử có tu
hành,
- Tâm niệm cho
là khổ,
- Hoặc thôn hay
chỗ vắng,
- Nhân đó sanh
hối hận.
- Các việc
thân, miệng gây,
- Và những điều
ý nghĩ,
- Ác nghiệp cứ
tăng dần,
- Quen làm lại
làm nữa,
- Tạo ác mãi
không thôi.
- Làm nhiều bất
thiện rồi,
- Thọ sanh đã
đến lúc,
- Tất bị trói
địa ngục.
- Buộc ràng quá
khổ này,
- Bậc Đại Hùng
đã thoát.
- Đúng pháp thu
tiền tài,
- Không nợ nần,
an ổn.
- Bố thí được
hoan hỷ
- Cả hai[02]
đều có lợi;
- Các Cư sĩ
theo đây,
- Do trí, phước
tăng mãi.
- Trong Thánh
pháp cũng vậy,
- Nếu có thành
tín vững,
- Đầy đủ đức
tàm quý,
- Rộng rãi
không keo kiệt,
- Dứt lìa năm
triền cái,
- Thường ưa
hành tinh tấn,
- Thành tựu các
thiền định,
- Chuyên nhất,
tâm tĩnh lạc[03].
- Niềm vui
không tài sản[04],
- Cũng như nước
tắm trong;
- Bất động tâm
giải thoát[05],
- Trừ sạch các
hữu kết.
- Không bệnh là
Niết-bàn;
- Đó là đèn vô
thượng,
- Vô ưu, vô
nhiễm lạc[06],
- Gọi là không
di động.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, A. 6. 45. Dāliddiya (iasutta).
-
[02] Hạnh phúc
trong đời này (dihadhamomahitatthāya) và an lạc trong đời
sau (samparāyasukhāya).
-
[03] Mãn cụ thường
khí lạc. Pāli: ekodi nipako sato, chuyên nhất, cẩn thận, có
chánh niệm.
-
[04] Vô thực lạc.
Pāli: nirāmisam sukham, sự an lạc không do vật chất.
-
[05] Bất động tâm
giải thoát. Pāli: akuppā me vimuttī.
-
[06] Vô trần an.
Pāli: virajam khema, sự an ổn không dính bụi.