- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
-
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Cư sĩ Cấp Cô Độc cùng chúng Ưu-bà-tắc
gồm có năm trăm người đi đến chỗ Tôn giả Xá-lê Tử. Cư sĩ Cấp
Cô Độc cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên. Năm trăm
Ưu-bà-tắc cũng làm lễ rồi ngồi xuống một bên. Cư sĩ Cấp Cô Độc
và năm trăm Ưu-bà-tắc sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả
Xá-lê Tử thuyết pháp cho họ, khuyến phát khát ngưỡng, thành
tựu sự hoan hỷ. Ngài dùng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho
họ, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu sự hoan hỷ rồi, liền
rời chỗ ngồi đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật và ngồi
xuống một bên.
Sau khi Tôn giả Xá-lê Tử đi chẳng bao lâu, Cư
sĩ Cấp Cô Độc và năm trăm Ưu-bà-tắc cũng đến chỗ Phật, cúi đầu
đảnh lễ sát chân Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi Tôn giả
Xá-lê Tử và mọi người đã an tọa, Đức Thế Tôn dạy:
“Này Xá-lê Tử, nếu thầy biết rằng bạch y Thánh
đệ tử[02]
gìn giữ, thực hành năm pháp một cách hoàn hảo và được bốn tăng
thượng tâm[03],
hiện pháp lạc trú, dễ được chứ không phải khó được. Xá-lê Tử,
thầy nên xác nhậän rằng Thánh đệ tử này không còn đọa địa
ngục, cũng không còn sanh vào loài súc sanh, ngạ quỷ và các
chỗ ác, được quả Tu-đà-hoàn, không đọa ác pháp, nhất định
thẳng tiến tới quả vị Chánh giác, tối đa chịu bảy lần sanh tử
nữa. Sau bảy lần qua lại cõi trời, nhân gian, liền được chấm
dứt khổ đau.
“Xá-lê Tử, thế nào là bạch y Thánh đệ tử khéo
giữ gìn và thực hành năm pháp[04]?
Đó là bạch y Thánh đệ tử xa lìa sát sanh, vứt bỏ dao gậy, có
tâm tàm quý, tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến loài
côn trùng, người ấy đối với sự sát sanh, tâm đã tịnh trừ. Đó
là pháp thứ nhất mà bạch y Thánh đệ tử đã giữ gìn và thực hành
một cách hoàn hảo.
“Lại nữa, này Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử xa
lìa việc lấy của không cho, dứt trừ việc lấy của không cho.
Khi nào cho mới lấy, vui với việc cho mới lấy, thường ưa bố
thí, hoan hỷ không keo kiết, không mong đền trả, không tham
lam, thấy tài vật của kẻ khác không lấy về mình[05].
Người ấy đối với việc không cho mà lấy tâm đã tịnh trừ. Đó là
pháp thứ hai mà bạch y Thánh đệ tử đã giữ gìn và thực hành một
cách hoàn hảo.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử xa lìa
tà dâm, dứt trừ tà dâm. Người nữ kia hoặc có cha giữ gìn, hoặc
có mẹ giữ, hoặc cả cha cả mẹ cùng giữ, hoặc anh em giữ, hoặc
chị em giữ, hoặc gia nương giữ, hoặc thân tộc giữ, hoặc người
cùng họ giữ, hoặc là vợ của người khác, hoặc có phạt gậy[06],
khủng bố, hoặc đã có ước hẹn bằng tài hóa, cho đến bằng một
tràng hoa[07];
đối với tất cả những người nữ ấy, không xâm phạm đến. Người ấy
đối với tà dâm, tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ ba mà bạch y
Thánh đệ tử đã giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử xa lìa
nói dối, dứt trừ nói dối; nói lời chân thật, ưa sự chân thật,
an trụ nơi sự chân thật, không dời đổi sai chạy. Tất cả những
lời nói đều đáng tin, không lừa dối thế gian. Người ấy đối với
sự nói dối, tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ tư mà bạch y Thánh
đệ tử giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử lìa
rượu, bỏ rượu. Người ấy đối với việc uống rượu, tâm đã tịnh
trừ. Đó là pháp thứ năm mà bạch y Thánh đệ tử giữ gìn và thực
hành một cách hoàn hảo.
“Này Xá-lê Tử, thế nào là bạch y Thánh đệ tử
được bốn tâm tăng thượng, hiện pháp lạc trú, dễ chứ không phải
khó được[08]?
Đó là bạch y Thánh đệ tử niệm tưởng Như Lai[09],
Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư,
Phật Chúng Hựu. Nhớ nghĩ Như Lai như vậy rồi, nếu có những ác
dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện,
nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ
tử nương vào Như Lai, tâm tịnh được hỷ, nếu có những điều ác
dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện
nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt. Như vậy, bạch y
Thánh đệ tử được tâm tăng thượng thứ nhất, hiện pháp lạc trú,
dễ được chứ không phải khó được.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử niệm
tưởng Pháp[10]
được Thế Tôn khéo giảng, pháp chắc chắn đưa đến cứu cánh,
không phiền, không nhiệt, hằng hữu, không di động. Quán pháp
như vậy, biết pháp như vậy, nhớ nghĩ pháp như vậy rồi nếu có
những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều
bất thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo, cũng được tiêu diệt. Bạch
y Thánh đệ tử duyên vào pháp, tâm tịnh được hỷ. Nếu có những
điều ác dục, liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất
thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo, cũng được tiêu diệt. Như vậy,
bạch y Thánh đệ tử được tâm tăng thượng thứ hai.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử niệm
chúng Tăng[11],
Thánh chúng của Như Lai là những bậc thiện thú hướng, chánh
thú hướng, như lý hành, pháp tùy pháp hành, chúng ấy thật có
A-la-hán hướng, A-la-hán quả, có A-na-hàm hướng, A-na-hàm quả,
có Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm quả, có Tu-đà-hoàn hướng,
Tu-đà-hoàn quả. Đó là bốn cặp tám bậc, là chúng của Như Lai
thành tựu giới, thành tựu định, thành tựu trí tuệ, thành tựu
giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, đáng kính, đáng
trọng, đáng phụng, đáng cúng, là ruộng phước an lành của thế
gian. Người ấy nhớ nghĩ chúng của Như Lai như vậy, nếu có
những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều
bất thiện, nhớp nhơ, âu lo, cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh
đệ tử duyên vào chúng của Như Lai, tâm được hoan hỷ, nếu có
những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều
bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt. Như
vậy, bạch y Thánh đệ tử được tâm tăng thượng thứ ba, hiện pháp
lạc trú dễ được chứ không phải khó được.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử tự niệm
tưởng giới[12],
giới này không sứt mẻ, không rách nát, không ô uế, không cấu
bẩn, vững như mặt đất, không hư vọng, đó là điều mà Đức Phật
ngợi khen, thọ trì đầy đủ tốt đẹp. Người ấy tự nhớ nghĩ giới
như vậy, nếu có những điều ác dục, liền được tiêu diệt. Trong
tâm có những điều bất thiện, sầu khổ, nhớp nhơ, âu lo cũng
được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử duyên vào giới, tâm định
được hỷ. Nếu có những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong
tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng
được tiêu diệt. Như vậy, bach y Thánh đệ tử được tâm tăng
thượng thứ tư, đối với hiện pháp lạc trú dễ được chứ không
phải khó được.
“Này Xá-lê Tử, nếu thầy biết rằng bạch y Thánh
đệ tử giữ gìn và thực hành năm pháp một cách hoàn hảo và được
bốn tâm tăng thượng, hiện pháp lạc trú, dễ được chứ không phải
khó được, thì này Xá-lê Tử, thầy nên ghi nhận rằng ‘Thánh đệ
tử này không còn đọa địa ngục, cũng không sanh vào loài súc
sanh, ngạ quỷ và các chỗ ác, được quả Tu-đà-hoàn, không đọa ác
pháp, nhất định thẳng tiến đến quả vị Chánh giác, tối đa chịu
bảy lần sanh tử nữa, sau bảy lần qua lại cõi trời và nhân
gian, liền được chấm dứt khổ đau’.”
Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng rằng:
- Kẻ trí sống
tại gia,
- Thấy địa
ngục, sợ hãi;
- Do thọ trì
Thánh pháp,
- Trừ bỏ tất cả
ác.
- Không sát hại
chúng sanh,
- Biết rồi hay
lìa bỏ,
- Chân thật
không nói dối,
- Không trộm
của kẻ khác;
- Tri túc với
gia phụ,
- Không ái lạc
vợ người;
- Dứt bỏ việc
uống rượu,
- Gốc tâm loạn
cuồng si.
- Thường nên
niệm chánh giác,
- Suy nghĩ các
pháp lành.
- Niệm Tăng,
quán cấm giới,
- Do đó được
hoan hỷ.
- Muốn hành
hạnh bố thí,
- Mà cầu mong
hưởng phước,
- Trước thí bậc
tịch tịnh[13],
- Như vậy thành
quả báo.
- Ta nói, bậc
tịch tịnh,
- Xá-lợi nên
nghe kỹ.
- Nếu có đen và
trắng,
- Dù sắc đỏ hay
vàng
- Tạp sắc, sắc
đang yêu[14],
- Bò và các
chim câu,
- Tùy loại
chúng sanh ra.
- Bò thuần, đi
phía trước,
- Thân sức
thành đầy đủ;
- Đi nhanh lại
về nhanh,
- Dùng theo khả
năng chúng,
- Kẻ gì sắc tốt
xấu.
- Nhân gian này
cũng vậy,
- Tùy theo chỗ
thọ sanh,
- Sát-đế-lị,
Phạm chí,
- Cư sĩ hay thợ
thuyền,
- Tùy thọ sanh
của họ,
- Trưởng thượng
do tịnh giới.
- Bậc Vô Trước,
Thiện Thệ,
- Cúng thí ấy,
quả lớn.
- Phàm phu, vô
sở trí,
- Không tuệ,
không học hỏi,
- Thí nơi ấy,
quả nhỏ.
- Không quang
minh rọi đến,
- Nơi nào rọi
quang minh,
- Phật đệ tử
trí tuệ,
- Tín tâm nơi
Thiện Thệ,
- Thiện căn
được vững bền,
- Người ấy sanh
thiện xứ,
- Như ý chứng
Gia gia,
- Tối hậu đắc
Niết-bàn,
- Như vậy có
duyên cả.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả Xá-lê Tử, chư
Tỳ-kheo, Cư sĩ Cấp Cô Độc và năm trăm Ưu-bà-tắc sau khi nghe
lời Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli A.5.179: Gihi-sutta.
-
[02] Bạch y Thánh
đệ tử. Pāli: gihi odātavasana, tại gia áo trắng.
-
[03] Bốn tăng
thượng tâm, ở đây chỉ bốn chứng tịnh hay bốn bất hoại tín,
(xem Pháp Uẩn 2, No.1537, trang 460a). Pāli: cataro
ābhicetasikā dhammā; xem đoạn dưới.
-
[04] Thiện hộ hành
ngũ pháp. Pāli: pañcasu sikkhāpadesu savutta- kammanto, hoạt
động được phòng hộ trong năm điều học, tức hộ trì năm giới.
-
[05] Bất dĩ thâu sở
phú thường tự hộ dĩ, không bị ám ảnh bởi việc ăn trộm. Sau
khi thường tự giữ gìn... Câu này bất thường so với các nơi
khác cũng trong bản Hán này. Ở đây dịch theo thông lệ của
các trường hợp kia.
-
[06] Hữu tiên phạt,
khủng bố, roi vọt và đe dọa; hai hạng nữ không là vợ hay con
của ai, nhưng một hạng được pháp luật vua gìn giữ; và một
hạng vốn là nô tì được chủ gìn giữ.
-
[07] Người nữ đã
hứa hôn.
-
[08] Nghĩa là, do
có bốn tăng thượng tâm (catunna ābhicetasikāna) mà sống an
lạc ngay trong hiện tại (dihadhammavihārāna).
-
[09] Hán: niệm Như
Lai; Pāli: buddhe aveccappasādena samannāgato, thành tựu
niềm tin không dao động đối với Phật. Có bốn niềm tin bất
động, gọi là bốn chứng tịnh hay bất hoại tín; xem đoạn tiếp
của kinh.
-
[10] Hán: niệm
Pháp. Pāli: dhamme aveccappasādena samannāgato, thành tựu
niềm tin bất động nơi Pháp.
-
[11] Niệm Tăng.
Pāli: sahge aveccappasdēna samannāgato.
-
[12] Tự niệm
thi-lại. Pāli: ariyakantehi sīlehi aveccappasādena
samannāgato, thành tựu các học giới mà Thánh ái mộ.
-
[13] Hán: tiên thí
ư tức tâm, bố thí cho người có tâm tịch tĩnh trước hết.
Pāli: santesu pahama dinnā.
-
[14] Mang sắc ái
lạc sắc. Pāli: kammasāsu sarūpāsu, (những con bò) có đốm hay
cùng màu. Hình như bản Hán đọc là surūpa thay vì sarūpa.
|