- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Bạt-kì-sấu, trong
núi Ngạc, rừng Bố, vườn Lộc dã[02].
Lúc bấy giờ Đại Mục-kiền-liên đang coi việc
dựng thiền thất cho Phật[03].
Trong lúc Tôn giả đang kinh hành trên khoảng đất trống, bấy
giờ Ma vương hóa hình nhỏ xíu, chui vào trong bụng của Tôn giả
Đại Mục-kiền-liên. Lúc đó, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nghĩ như
vầy, “Bụng ta cảm thấy nặng, giống như đang ăn phải hạt đậu.
Ta hãy nhập Như kỳ tượng định, bằng Như kỳ tượng định ta nhìn
vào bụng xem.”
Rồi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đi đến cuối đường
kinh hành, trải ni-sư-đàn, ngồi xếp kiết già, nhập như kỳ
tượng định, bằng như kỳ tượng định mà nhìn vào bụng mình, Tôn
giả Đại Mục-kiền-liên thấy Ma vương đang ở trong đó. Tôn giả
bèn ra khỏi định, nói với Ma vương:
“Này Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Này Ba-tuần,
ngươi hãy đi ra! Chớ có xúc nhiễu Như Lai, cũng chớ xúc nhiễu
đệ tử của Như Lai. Đừng sống mãi trong sự vô nghĩa, vô ích mà
phải tái sanh ác xứ, thọ vô lượng khổ.”
Khi ấy, Ma vương liền nghĩ: “Sa-môn này không
thấy, không biết, thế mà lại nói: ‘Này Ba-tuần, ngươi hãy đi
ra! Này Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Chớ có xúc nhiễu Như Lai,
cũng chớ xúc nhiễu đệ tử của Như Lai. Đừng sống mãi trong sự
vô nghĩa, vô ích mà phải tái sanh ác xứ, thọ vô lượng khổ’.
Tôn sư của ông ta có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại
phước hựu, có đại oai thần, cũng không thể thấy mau lẹ, biết
mau lẹ như vậy, huống nữa là đệ tử mà thấy biết được sao!”
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên lại nói với Ma vương
rằng:
“Ta lại biết trong ý của ngươi, ngươi nghĩ như
vầy, ‘Sa-môn này không thấy, không biết, thế mà lại nói: ‘Này
Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Này Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Chớ có
xúc nhiễu Như Lai, cũng chớ xúc nhiễu đệ tử của Như Lai. Đừng
sống mãi trong sự vô nghĩa, vô ích mà phải tái sanh ác xứ, thọ
vô lượng khổ’. Tôn sư của ông ta có đại như ý túc, có đại oai
đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, cũng không thể thấy
mau lẹ, biết mau lẹ như vậy, huống nữa là đệ tử mà thấy biết
được sao!’”
Ma Ba-tuần kia nghĩ rằng: “Sa-môn này đã thấy
và biết ta nên mới nói như vậy.” Rồi ma Ba-tuần hóa hình nhỏ
xíu, từ trong miệng vọt ra, đứng ngay trước mặt Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên bảo rằng:
“Này ma Ba-tuần, thuở xưa, có Như Lai tên là
Giác-lịch-câu-tuân-đại[04],
Đấng Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác. Lúc đó ta làm ma có tên là
Ác[05].
Ta có người em gái[06]
tên là Hắc[07].
Ngươi chính là con trai của nó. Này ma Ba-tuần, vì lẽ đó cho
nên ngươi là cháu gọi ta bằng cậu.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như
Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác có hai đệ tử, một tên là Âm[08],
hai tên là Tưởng[09].
Này Ba-tuần, do ý nghĩa nào được gọi là Âm? Ba-tuần, Tôn giả
đó lúc sống trên cõi trời Phạm thiên, tiếng nói bình thường
của ngài vang cả ngàn thế giới, lại không có một đệ tử nào có
âm thanh ngang bằng, hoặc tương tợ, hoặc trội hơn được. Này
Ba-tuần, vì lẽ ấy cho nên Tôn giả đó được gọi là Âm vậy.
Ba-tuần, lại do ý nghĩa nào mà Tôn giả Tưởng có tên là Tưởng?
Này Ba-tuần, Tôn giả Tưởng nương nơi thôn ấp mà du hành. Khi
đêm đã qua, lúc trời hừng sáng, Tôn giả ấy đắp y, mang bình
bát, đi vào thôn ấp khất thực, cẩn thận thủ hộ thân, thu nhiếp
các căn, giữ vững chánh niệm. Ngài sau khi khất thực xong và
sau khi ăn vào lúc giữa trưa, thâu vén y bát, rửa tay chân,
vắt Ni-sư-đàn trên vai, đi vào rừng vắng vẻ, hoặc đến dưới gốc
cây trong rừng sâu, hoặc đến chỗ không tĩnh, trải ni-sư-đàn
ngồi kết già, liền nhập Tưởng tri diệt định một cách mau
chóng. Lúc ấy có những người đang lùa trâu, dê, người đi mót
cỏ, hoặc người đi đường, họ vào trong núi, thấy ngài nhập
Tưởng tri diệt định, bèn nghĩ rằng: ‘Nay Sa-môn này ngồi mà
chết trong khu rừng vắng này. Chúng ta hãy nhặt cỏ khô chất
đống phủ lên trên, ràng rịt cẩn thận, lượm củi chất chồng lên
trên thân để hỏa thiêu’. Họ bèn nhặt cỏ chất đống phủ lên thân
ngài, nổi lửa đốt rồi bỏ mà đi. Tôn giả kia, sau khi đêm đã
qua, trời vừa hừng sáng, ra khỏi định, đập phủi y phục, du
hành trở về thôn ấp, đắp y, mang bình bát vào thôn ấp khất
thực như thường lệ, khéo giữ gìn thân căn, giữ vững chánh
niệm. Những người lùa trâu, dê, những người mót cỏ khô, hoặc
người đi đường vào trong núi đã gặp Tôn giả trước kia, họ bèn
nghĩ: ‘Đây là Sa-môn ngồi mà chết trong khu rừng vắng vẻ này.
Chúng ta đã nhặt cỏ khô chất đống phủ trên thân, nổi lửa đốt
rồi bỏ đó mà đi. Song Hiền giả này vẫn còn biết tưởng[10].’
Này Ba-tuần, vì lẽ đó cho nên Tôn giả Tưởng được gọi là Tưởng
vậy.
“Này Ba-tuần, lúc ấy ác ma nghĩ rằng: ‘Sa-môn
trọc đầu này bị da đen trói chặt[11],
bị tuyệt chủng, không con cái, học thiền, dò xét, ngong ngóng
dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét[12].
Giống như con lừa trọn ngày mang nặng, bị cột lại trong tàu,
không được ăn lúa mạch, nó dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn
luôn ngong ngóng dò xét; Sa-môn trọc đầu này bị da đen trói
chặt, tuyệt chủng, không con cái, chúng nó học thiền, dò xét,
ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét.
“‘Giống như con mèo ngồi rình bên hang chuột,
vì muốn bắt chuột nên nó dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn
ngong ngóng dò xét; cũng vậy, Sa-môn trọc đầu này bị da đen
trói chặt, tuyệt chủng không con cái, chúng nó học thiền, dò
xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét.
“ ‘Cũng giống như con cú mèo[13]
ở giữa đống củi khô, vì muốn bắt chuột nên nó dò xét, ngong
ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét; cũng vậy, Sa-môn
trọc đầu này bị da đen trói chặt, tuyệt chủng không con cái,
chúng nó học thiền, dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn
ngong ngóng dò xét.
“ ‘Giống như con chim hạc[14]
ở bên bờ nước, vì muốn bắt cá nên nó dò xét, ngong ngóng dò
xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét; cũng vậy, Sa-môn trọc đầu
này bị da đen trói chặt, bị tuyệt chủng không con cái, chúng
nó học thiền, dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong
ngóng dò xét.
“‘Chúng dò xét cái gì? Dò xét với mục đích gì?
Dò xét để mong cái gì? Chúng nó loạn trí, phát cuồng, bại
hoại. Ta chẳng biết chúng nó ở đâu đến, cũng chẳng biết chúng
nó đi về đâu, chẳng biết chúng nó sống ở đâu, chẳng biết chúng
nó chết như thế nào, sanh như thế nào? Ta hãy dạy bảo các Phạm
chí, Cư sĩ rằng: ‘Ngươi hãy đi đến mà chửi, mà đập, mà phá, mà
rủa xả Sa-môn tinh tấn kia’. Vì sao vậy? Khi bị chửi, bị đập,
bị phá, bị rủa xả, biết đâu chúng nó chẳng nổi ác tâm để ta dễ
lợi dụng’.
“Bấy giờ ác ma bèn xúi dục các Cư sĩ, Phạm chí.
Các Cư sĩ, Phạm chí ấy chửi, đập phá, rủa xả Sa-môn tinh tấn.
Các Cư sĩ, Phạm chí ấy hoặc dùng cây đánh, hoặc lấy đá ném,
hoặc vác gậy đập, có khi gây thương tích Sa-môn tinh tấn, có
khi làm rách toạc áo, có khi làm bể bình bát. Bấy giờ trong số
Cư sĩ Phạm chí ấy do nhân duyên này thân hoại mạng chung phải
đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Chúng sanh vào đó rồi, suy
nghĩ như vầy, ‘Ta phải thọ khổ này, lại phải thọ cực khổ hơn
nữa. Vì cớ sao? Vì chúng ta đã đối xử tàn ác với Sa-môn tinh
tấn vậy’.
“Này Ba-tuần, đệ tử của Đức
Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác mang đầu thương tích, mang y rách toạc, mang bình bát bể,
đi đến chỗ Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước
Đẳng Chánh Giác. Lúc bấy giờ Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như
Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác đang thuyết pháp cho vô
lượng trăm ngàn quyến thuộc vây quanh. Đức
Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh
Giác trông thấy từ xa một đệ tử mang đầu bị thương tích, y
rách toạc, bình bát bể đi đến. Ngài thấy vậy, bảo các Tỳ-kheo
rằng: ‘Các ngươi có thấy chăng, ác ma đã xúi dục các Cư sĩ,
Phạm chí rằng ‘Các ngươi hãy đến mà chửi, mà đập, mà rủa xả
Sa-môn tinh tấn. Vì cớ sao? Khi bị chửi, bị đập, bị rủa xả,
biết đâu chúng nó chẳng nổi ác tâm để ta dễ dàng lợi dụng’.’
Này các Tỳ-kheo, hãy với tâm tương ưng với từ, biến mãn một
phương, thành tựu an trụ. Cũng vậy, hai, ba, bốn phương, tứ
duy thượng hạ bao trùm tất cả, tâm tương ưng với từ, Bồ tát
kết, không oán, không nhuế, không não hại, rộng lớn bao la, vô
lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an
trụ. Bi và hỷ cũng vậy. Tâm tương ưng với xả, không kết, không
oán, không nhuế, không tranh, rộng lớn bao la, vô lượng, khéo
tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trụ. Với tâm
ấy khiến ác ma không thể lợi dụng’.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như
Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác bằng giáo pháp như vậy
mà dạy đệ tử. Họ bèn thọ lãnh giáo pháp ấy, tâm tương ưng với
từ, không oán, không nhuế, không tranh, rộng lớn bao la, khéo
tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trụ. Với tâm
ấy, ác ma kia không thể lợi dụng được.
“Này ma Ba-tuần, lúc đó ác ma lại nghĩ: ‘Bằng
sự việc ấy ta muốn lợi dụng Sa-môn tinh tấn mà không thể được.
Bây giờ ta hãy xúi dục các Cư sĩ, Phạm chí rằng: ‘Các người
hãy đến phụng kính, cúng dường, lễ sự Sa-môn tinh tấn’. Biết
đâu do sự phụng kính, cúng dường, lễ sự Sa-môn tinh tấn, chúng
nó chẳng nổi ác tâm để ta dễ dàng lợi dụng’.
“Này Ma Ba-tuần, các Cư sĩ, Phạm chí kia sau
khi bị ác ma xúi dục, họ đến phụng kính, cúng dường, lễ sự
Sa-môn tinh tấn. Họ lấy áo trải lên mặt đất mà nói rằng
‘Sa-môn tinh tấn, xin đạp lên mà đi. Sa-môn tinh tấn thường
làm những việc khó làm, khiến cho chúng tôi mãi mãi được lợi
ích, được an ổn khoái lạc’. Hoặc có Phạm chí trải tóc lên mặt
đất, nói rằng ‘Sa-môn tinh tấn, xin đạp lên tóc mà đi. Sa-môn
tinh tấn thường làm những việc khó làm, khiến cho chúng tôi
mãi mãi được lợi ích, được an ổn khoái lạc’. Hoặc có Cư sĩ,
Phạm chí hai tay bưng đủ các loại ẩm thực, đứng bên dưới đợi
và nói rằng ‘Sa-môn tinh tấn, xin nhận vật thực này, xin cứ
mang đi tùy ý mà thọ dụng, để cho tôi mãi mãi được lợi ích,
được an ổn khoái lạc’. Các Cư sĩ, Phạm chí thành tín thấy
Sa-môn tinh tấn, cung kính bồng bế vào nhà, đem đủ thứ tài vật
ra cho Sa-môn tinh tấn và nói rằng: ‘Xin thọ nhận cái này, xin
thọ dụng cái này, xin mang cái này đi, tùy ý mà thọ dụng’. Lúc
bấy giờ trong số các Cư sĩ, Phạm chí đó có người chết, do nhân
duyên này thân hoại mạng chung được đi đến thiện xứ, sanh lên
cõi trời. Sau khi sanh vào đó, họ bèn nghĩ ‘Ta đáng thọ hưởng
sự an lạc này, lại sẽ thọ hưởng cực lạc hơn nữa. Vì sao thế?
Vì chúng ta đã làm các việc lành với Sa-môn tinh tấn vậy’.
“Này ma Ba-tuần, đệ tử của Đức
Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh
Giác, sau khi được phụng kính, cúng dường, lễ sự, họ đi đến
Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng
Chánh Giác. Lúc đó Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô
Sở Trước Đẳng Chánh Giác đang thuyết pháp cho vô lượng trăm
ngàn đệ tử vây quanh. Khi Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai,
Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác trông thấy từ xa các đệ tử được
phụng kính, cúng dường, lễ sự đang đi đến, thấy vậy, ngài bảo
các Tỳ-kheo rằng: ‘Các ngươi có thấy chăng? Ác ma xúi dục các
Cư sĩ, Phạm chí rằng ‘Các ngươi hãy đến phụng kính, cúng
dường, lễ sự Sa-môn tinh tấn’. Biết đâu do phụng kính, cúng
dường, lễ sự Sa-môn tinh tấn, chúng sẽ nổi ác tâm để ta dễ
dàng lợi dụng. Này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy quán các hành vô
thường, quán các pháp hưng suy, quán vô dục, quán xả ly, quán
diệt, quán đoạn để cho bọn ác ma không thể lợi dụng’.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như
Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác bằng giáo pháp như vậy
mà dạy các đệ tử, họ bèn thọ lãnh giáo pháp ấy, quán các hành
vô thường, quán pháp hưng suy, quán vô dục, quán xả ly, quán
diệt, quán đoạn, khiến cho ác ma không thể lợi dụng.
“Này ma Ba-tuần, lúc đó ác ma bèn nghĩ: ‘Bằng
việc ấy ta muốn lợi dụng Sa-môn tinh tấn mà không được. Ta hóa
hình làm một đứa nhỏ[15]
tay cầm cây gậy lớn, đứng bên đường, đánh vỡ đầu Tôn giả Âm,
khiến máu chảy ướt cả mặt’.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như
Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác sau đó đang du hành
trong thôn ấp. Khi đêm đã qua, lúc trời hừng sáng, mang y bát
vào trong thôn xóm khất thực, Tôn giả Âm đi hầu theo phía sau.
Ma Ba-tuần, lúc ấy ác ma hóa hình làm một đứa bé, tay cầm một
cây gậy lớn đứng bên đường, đánh vỡ đầu Tôn giả Âm, khiến máu
chảy ướt cả mặt. Ma Ba-tuần, Tôn giả Âm sau khi bị vỡ đầu chảy
máu, vẫn đi theo sau Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng
Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác như bóng không rời hình. Này ma
Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Bậc Vô Sở Trước
Đẳng Chánh Giác sau khi đến thôn ấp, bằng sức mạnh cực kỳ của
bản thân, Ngài xoay nhìn theo phía hữu, như cái nhìn của một
voi chúa, không sợ không hãi, không kinh không khiếp, quán sát
khắp mọi phía. Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như
Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nhìn thấy Tôn giả Âm đầu
bị chảy máu ướt cả mặt, đang đi theo sau Phật như bóng không
rời hình, bèn nói rằng: ‘Ác ma thật là hung bạo này có đại oai
lực, ác ma này không biết vừa đủ’.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như
Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói chưa xong thì ngay
tại chỗ đó ác ma liền bị đọa vào đại địa ngục Vô khuyết[16].
Ma Ba-tuần, đại địa ngục này có bốn tên gọi[17],
một là Vô khuyết, hai là Bách đinh, ba là Nghịch thích, bốn là
Lục cánh. Trong đại địa ngục đó có ngục tốt đi đến chỗ ác ma ở
mà nói rằng: ‘Ngươi nay nên biết, nếu đinh hiệp với các đinh,
phải biết mãn một trăm năm’.”
Ma Ba-tuần nghe nói như vậy xong, trong lòng
hết sức rúng động, kinh sợ, khủng khiếp vô cùng, tóc lông dựng
ngược, bèn hướng đến tôn giả Đại Mục-kiền-liên mà nói bài kệ:
- Địa ngục kia
thế nào,
- Xưa ác ma ở
đó?
- Nhiễu hại bậc
Phạm hạnh
- Xúc phạm cả
Tỳ-kheo.
- Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên đáp lại ma Ba-tuần bài kệ rằng:
- Địa ngục tên
Vô khuyết,
- Ác ma từng ở
trong.
- Nhiễu hại bậc
Phạm hạnh,
- Xúc phạm
Tỳ-kheo Tăng.
- Đinh sắt cả
trăm cái,
- Thảy đều đâm
ngược lên.
- Địa ngục tên
Vô khuyết,
- Ác ma từng ở
trong.
- Nếu như ai
không biết,
- Đệ tử Phật,
Tỳ-kheo,
- Tất nhiên khổ
như vậy,
- Mà thọ báo
nghiệp đen.
- Trong nhiều
loại viên quán,
- Loài người
trên đất này,
- Ăn loại lúa
tự mọc,
- Đời Bắc châu,
tự nhiên.[18]
- Đại Tu di
triền núi
- Xông ướp bởi
nhân lành.[19]
- Tu tập nơi
giải thoát,
- Thọ trì tối
hậu thân,
- Đứng sững
trên suối lớn,
- Cung điện
kiếp lâu bền.[20]
- Sắc vàng thật
ái lạc,
- Như lửa rực
huy hoàng[21].
- Nhạc trời
trỗi các thứ;
- Đến Đế Thích
thiên cung.
- Kiếp xưa với
nhà cửa,
- Thiện Giác đã
cúng dường[22].
- Nếu Đế Thích
đi trước,
- Lên điện
Tỳ-xà-diên[23],
- Hân hoan chào
đón Thích,
- Thiên nữ vũ
chúc mừng.
- Nếu thấy
Tỳ-kheo đến[24],
- Nhìn lui, vẻ
thẹn thùng.
- Nếu
Tỳ-lan-diên hiện,
- Luận nghĩa
cùng Sa-môn,
- Ái tận, đắc
giải thoát[25];
- Đại tiên có
biết chăng?
- Tỳ-kheo liền
đáp lại,
- Người hỏi
đúng như nghĩa.
- Câu-dực, ta
biết đây,
- Ái tận, đắc
giải thoát.
- Nghe lời giải
đáp này,
- Đế Thích hoan
hỷ lạc.
- Tỳ-kheo ban
lợi ích,
- Nói năng đúng
nghĩa chân.
- Trên
Tỳ-xà-diên điện,
- Hỡi Đế Thích
thiên vương,
- Cung điện tên
gì vậy,
- Mà người
nhiếp trì thành?
- Thích đáp:
Đại Tiên Nhân!
- Tên
Tỳ-xà-diên-đá.
- Gọi là thế
giới ngàn,
- Ở trong ngàn
thế giới;
- Không cung
điện nào hơn
- Như
Tỳ-la-diên-đá.
- Thiên vương
Thiên Đế Thích,
- Tự tại mà du
hành.
- Ái-lạc
na-du-đá[26],
- Hóa một thành
trăm hàng.
- Trong
Tỳ-lan-diên điện,
- Đế Thích tự
tại chơi.
- Tỳ-lan-diên
đại điện,
- Ngón chân đủ
lung lay[27].
- Thiên vương
mắt xem thấy,
- Đế Thích tự
tại chơi.
- Giảng đường
Lộc tử mẫu[28],
- Nền sâu, đắp
kiên cố,
- Khó động, khó
lung lay,
- Lay bởi định
như ý.
- Kia có đất
lưu ly,
- Thánh nhân
bước lên đi
- Trơn nhuần,
cảm thọ lạc,
- Trải gấm êm
diệu kỳ.
- Ái ngữ thường
hòa hiệp,
- Thiên vương
thường hân hoan.
- Nhạc trời hay
khéo trỗi,
- Âm tiết họa
nhịp nhàng.
- Thiên chúng
đều hội tụ,
- Nhưng thuyết
Tu-đà-hoàn[29].
- Biết mấy vô
lượng ngàn,
- Và hằng trăm
na thuật.
- Đến Tam thập
tam thiên,
- Bậc Tuệ Nhãn
thuyết pháp.
- Nghe Ngài
thuyết pháp xong,
- Hoan hỷ và
phụng hành.
- Ta cũng có
pháp ấy,
- Như lời của
tiên nhân;
- Tức lên cõi
Đại phạm,
- Hỏi Phạm
thiên sự tình.
- Phạm vẫn có
thấy ấy;
- Tức thấy có
từ xưa,
- Ta vĩnh tồn,
thường tại,
- Hằng hữu,
không biến đổi.
- Đại Phạm trả
lời kia,
- Đại tiên tôi
không thấy,
- Tức thấy có
từ xưa,
- Ta thường
hằng không đổi.
- Tôi thấy cảnh
giới này,
- Các Phạm
thiên quá khứ;
- Ta nay do đâu
nói,
- Thường hằng
không biến đổi.
- Ta thấy thế
gian này,
- Bậc Chánh
Giác đã dạy.
- Tùy nhân
duyên sanh ra,
- Luân chuyển
rồi trở lại.
- Lửa không
nghĩ thế này:
- “Ta đốt kẻ
ngu dại”
- Lửa đốt, ngu
sờ tay,
- Tất nhiên
phải bị cháy.
- Cũng vậy, ma
Ba-tuần,
- Đến Như Lai
pháp khuất,
- Mãi làm điều
bất thiện,
- Tất thọ báo
miên viễn.
- Ngươi đừng
trách Phật-đà,
- Chớ hại
Tỳ-kheo tịnh.
- Một Tỳ-kheo
hàng ma,
- Tại Bố Lâm
rừng già.
- Con quỷ sầu
áo não,
- Bị Kiền-liên
quở la.
- Hãi hùng mất
trí tuệ,
- Biến mất bèn
đi xa.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thuyết như vậy. Ma
Ba-tuần sau khi nghe Tôn giả thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli M.50. Māratajjaniya-sutta. Biệt dịch No.66 và No.67.
-
[02] Ngạc sơn, Bố
lâm: xem cht.3, kinh 74.
-
[03] No.66 cũng nói
dữ kiện này. No.67 và Pāli không có.
-
[04] Giác lịch câu
tuân đại. No.66: Câu-lâu-tôn. No.67: Câu-lâu-tần.
Pāli:Kaku-sandha.
-
[05] Ác. No.66: xúc
nhiễu ma. No.67: sân hận. Pāli: Dūsī.
-
[06] No.66 cũng nói
là muội. No.67 nói là tỷ, chị. Pāli: bhaginī.
-
[07] Hắc. No.67:
Yểm hắc. Pāli: Kālī.
-
[08] Âm; Pāli:
Vidhura.
-
[09] Tưởng; Pāli:
Sañjīva.
-
[10] Thử Hiền giả
cánh phục tưởng; Pāli: aya samao... svāya paisañjīvito,
sa-môn này tự mình sống lại. Ở đây, sañjīva: người còn sống;
bản Hán đọc là saññīva; người còn có tưởng.
-
[11] Dĩ hắc sở
phược. Pāli: kihā bandhupādāpacca, đen điu, nòi giống ti
tiện (sinh từ bàn chân của bà con của Phạm thiên). Trong bản
Hán, bandhu, bà con, được đọc là bandha, sự cột trói.
-
[12] Cố dịch sát:
học thiền, tứ, tăng tứ, sác sác tăng tứ. Pāli: jhāyanti,
pajjhāyanti, nijjhāyanti, apajjhāyanti (chúng nó thiền,
chúng nó thiền trầm ngâm, chúng nó thiền đắm đuối, chúng nó
thiền si dại). Hán tăng tứ thường dịch chữ abhijjhā, tham
cầu (theo nghĩa, dòm ngó tài sản người khác), được hiểu cùng
gốc động từ jhāyati: thiền hay tư duy.
-
[13] Nguyên Hán:
hưu hồ, có lẽ chính xác là con hưu lưu, loại cú tai mèo, bắt
chuột. Pāli: ulūka, con cú.
-
[14] Hạc điểu,
chính xác nên hiểu là con sếu; nhưng bản Pāli: kotthu
nadītīre, con giả can bên bờ sông.
-
[15] Bản Pāli: nhập
vào một cậu bé (aññatara kumāraka anvāvisitvā).
-
[16] No.66: danh
A-tỳ-nê-lê. Có lẽ, Vô khuyết tức Vô gián, hay A-tỳ (Avici).
Bản Pāli không nói tên địa ngục gì.
-
[17] Bản Pāli chỉ
có ba tên: chaphassāyataniko, địa ngục sáu xúc xứ;
saṅkusamāhato, địa ngục cọc sắt; paccattavedaniyo, địa ngục
thọ khổ các biệt.
-
[18] Bốn câu trở
lên nói đời sống châu Bắc Câu-lô.
-
[19] Hai câu nói về
trời Tứ thiên vương, ở ngay sườn núi Tu-di (Sineru).
-
[20] Nói về cõi
trời Tam thập tam thiên hay Đao lợi thiên (Tavatimsa), ở
trên chóp Tu-di. Từ đây trở xuống, nói về các cõi cao hơn.
-
[21] Hán: Hoảng
dục; danh từ bình thường, không chỉ trời Quang âm ở Nhị
thiền thiên.
-
[22] Trong một tiền
kiếp, Đế Thích cúng dường nhà cửa cho Sa-môn. Do đó, còn có
tên là Vāsava.
-
[23] Tỳ-xà-diên.
Pāli: Vejayanta (Chiến thắng), được gọi như vậy vì xuất hiện
khi Thiên Đế Thích chiến thắng A-tu-la (Asura).
-
[24] Tức Tôn giả
Đại Mục-kiền-liên. Xem chú thích ngay dưới.
-
[25] Thiên Đế Thích
(Sakka) được Phật giảng cho về ái tận giải thoát. Trở về
cung điện, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên muốn biết Sakka có hiểu
hay không, nên tìm đến điện Vejayanta. Thiên Đế Thích từ
chối trả lời. Khi Tôn giả thấy đời sống hưởng thụ của Thiên
Đế Thích cho rằng quá đáng, nên bấm ngón chân cái, làm rung
động điện Vejayanta, Thiên Đế Thích hoảng sợ (xem M.37).
-
[26] Na-du-đá,
Pāli: nahuta hay nayuta, đơn vị đo đường dài. Nhưng trong
đây không rõ ý gì.
-
[27] Xem chú thích
25 trên.
-
[28] Phật nói về ái
tận giải thoát cho Đế Thích tại giảng đường Lộc tử mẫu.
-
[29] Đế Thích được
coi như đắc Tu-đà-hoàn, sau khi nghe Phật nói kinh
Sakkapañhā (Pāli: D.21, Hán No.1914).
|