Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Na-nan-đà[02],
trong vườn xoài Ba-bà-ly[03].
Lúc bấy giờ có người Ni-kiền là Trường Khổ
Hạnh[04]
sau giờ ăn trưa, ung dung đi đến chỗ Phật, và sau khi chào
hỏi, ngồi xuống một bên.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn hỏi:
“Nhà khổ hạnh Ni-kiền Thân Tử[05]
chủ trương có bao nhiêu hành vi để không hành ác nghiệp,
không tạo tác ác nghiệp?[06]“
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Thưa Cù-đàm, Tôn sư của tôi, Ni-kiền Thân
Tử, không giảng dạy cho chúng tôi về những hành vi để không
hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp. Nhưng người giảng
dạy chúng tôi về sự trừng phạt để không hành ác nghiệp,
không tạo tác ác nghiệp.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Nhà khổ hạnh Ni-kiền Thân Tử chủ trương có
bao nhiêu sự trừng phạt để không hành ác nghiệp, không tạo
tác ác nghiệp?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp rằng:
“Thưa Cù-đàm, Tôn sư của tôi, Ni kiền Thân Tử
giảng dạy cho chúng tôi về ba sự trừng phạt để không hành ác
nghiệp, không tạo tác ác nghiệp. Những gì là ba? Đó là sự
trừng phạt bằng thân, sự trừng phạt bằng miệng và sự trừng
phạt bằng ý[07].
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Này Khổ Hạnh, thế nào, thân phạt, khẩu phạt,
ý phạt có khác nhau không?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp rằng:
“Thưa Cù-Đàm, đối với chúng tôi, thân phạt
khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác.”
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Này Khổ Hạnh, các sự trừng phạt này tương tự
như vậy. Ni-kiền Thân Tử chủ trương trừng phạt nào nặng hơn
hết để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp? Sự
trừng phạt của thân chăng? Của khẩu chăng? Của ý chăng?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp rằng:
“Thưa Cù-đàm, các sự trừng phạt này tương tự
như vậy. Tôn sư tôi, Ni-kiền Thân Tử chủ trương thân phạt là
nặng hơn hết để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác
nghiệp. Khẩu phạt thì không phải vậy, ý phạt thì nhẹ nhất,
không bằng thân phạt vốn “rất lớn lao, rất nặng nề.
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Khổ Hạnh, ông nói thân phạt nặng nhất
chăng?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Thưa Cù-đàm, thân phạt nặng nhất.”
Đức Thế Tôn hỏi lại đến lần thứ ba:
“Này Khổ Hạnh, ông nói thân phạt nặng nhất
chăng?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh cũng ba lần đáp lại:
“Thưa Cù-đàm, thân phạt nặng nhất.”
Đức Thế Tôn thẩm định ba lần Ni-kiền Trường
Khổ Hạnh việc như vậy xong, bèn ngồi im lặng.
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh hỏi:
“Sa-môn Cù-đàm chủ trương có bao nhiêu sự
trừng phạt để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác
nghiệp?”
Bấy giờ Đức Thế Tôn đáp:
“Này Khổ Hạnh, ta không giảng thuyết về những
trừng phạt để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp.
Ta chỉ giảng thuyết về nghiệp để không hành ác nghiệp, không
tạo tác ác nghiệp.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh hỏi:
“Cù-đàm chủ trương có bao nhiêu nghiệp để
không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp?”
Thế Tôn lại đáp:
“Này Khổ Hạnh, Ta giảng thuyết về ba nghiệp
để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp. Thế nào là
ba? Là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh lại hỏi:
“Cù-đàm, thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác,
ý nghiệp khác chăng?”
Thế Tôn lại đáp:
“Ta nói, thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác,
ý nghiệp khác vậy”.
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh hỏi:
“Thưa Cù-đàm, ba nghiệp này tương tự như vậy,
Ngài chủ trương nghiệp nào nặng nhất để không hành ác
nghiệp, không tạo tác ác nghiệp? Là thân nghiệp chăng? Khẩu
nghiệp chăng? Ý nghiệp chăng?”
Thế Tôn lại đáp:
“Này Khổ Hạnh, ba nghiệp này tương tự như
vậy, Ta giảng thuyết ý nghiệp là nặng nhất để không hành ác
nghiệp, không tạo tác ác nghiệp. Thân nghiệp và khẩu nghiệp
thì không phải vậy.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh hỏi:
“Cù-Đàm chủ trương ý nghiệp nặng nhất chăng?”
Thế Tôn đáp:
“Này Khổ Hạnh, Ta giảng thuyết ý nghiệp là
nặng nhất.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh lại hỏi đến ba lần:
“Cù-Đàm chủ trương thi thiết ý nghiệp là nặng
nhất chăng?”
Thế Tôn cũng trả lời đến ba lần:
“Này Khổ Hạnh, Ta giảng thuyết ý nghiệp là
nặng nhất vậy.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh ba lần thẩm định Thế
Tôn sự việc đó như vậy xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi
nhiễu ba vòng quanh Thế Tôn rồi lui về; đi đến chỗ Ni-kiền
Thân Tử. Ni-kiền Thân Tử từ xa thấy Trường Khổ Hạnh đi đến,
liền hỏi:
“Này Khổ Hạnh, ngươi từ đâu đến vậy?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Con từ Na-nan-đà, trong vườn xoài Ba-bà-ly,
tại chỗ của Sa-môn Cù-đàm đến đây.”
Ni-kiền Thân Tử hỏi:
“Này Khổ Hạnh, ông có cùng Sa-môn Cù-đàm bàn
luận không?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Có bàn luận với nhau.”
Ni-kiền Thân Tử nói rằng:
“Này Khổ Hạnh, nếu đã cùng với Sa-môn Cù-đàm
bàn luận, thì hãy nói lại hết cho ta nghe, để hoặc giả ta
biết được luận thuyết của vị ấy”.
Rồi Ni-kiền Trường Khổ Hạnh mới đem sự việc
thảo luận với Thế Tôn nói lại cho ông nghe. Ni-kiền Thân Tử
nghe xong, khen rằng:
“Hay thay Khổ Hạnh! Ngươi đối với Tôn sư đã
làm đúng pháp của đệ tử. Ông là người mà việc phải làm được
thành biện bằng trí tuệ. Với quyết định thông minh, với sự
trầm tĩnh không sợ hãi, hoàn toàn tự tin tưởng, đã đạt đến
tài hùng biện, đã bắt được ngọn cờ cam lộ, ở trong cảnh giới
cam lộ tự thân chứng ngộ, thành tựu an trụ[08].
Vì sao vậy? Ngươi vừa rồi đối với Sa-môn Cù-đàm mà giảng
thuyết thân phạt là nặng nhất để không hành ác nghiệp, không
gây ác nghiệp. Khẩu phạt không như vậy. Ýù phạt càng kém
hơn; không bằng thân phạt rất lớn lao, rất trầm trọng.”
Khi ấy, Cư sĩ Ưu-ba-ly[09]
cùng năm trăm Cư sĩ tập họp trong chúng chắp tay hướng
Ni-kiền Thân tử. Rồi Cư sĩ Ưu-ba-ly nói với Ni-kiền Trường
Khổ Hạnh:
“Ngài đã ba lần thẩm định Sa-môn Cù-đàm việc
như vậy?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Cư sĩ, tôi đã ba lần thẩm định Sa-môn Cù-đàm
việc như vậy.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói với Ni-kiền Trường Khổ
Hạnh:
“Tôi cũng có thể đến thẩm định ba lần Sa-môn
Cù-đàm việc như vậy, rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Cũng như
người lực sĩ nắm con dê có cái bờm dài[10]
rồi lôi kéo đi đâu tùy ý; tôi cũng như vậy, có thể đến thẩm
định ba lần Sa-môn Cù-đàm việc như vậy, rồi lôi kéo đi đâu
tùy ý. Cũng như người lực sĩ cầm áo lông giũ bụi, tôi cũng
như vậy, có thể đến thẩm định lại ba lần với Sa-môn Cù-đàm
việc như vậy, rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Tôi cũng như vậy, có
thể đến thẩm định lại ba lần với Sa-môn Cù-đàm việc như vậy
rồi lôi kéo đi dâu tùy ý. Cũng như người nấu rượu[11],
hay đệ tử của người nấu rượu, lấy cái túi lọc rượu đem để
vào trong nước, rồi tùy theo ý muốn, lôi đi đâu tùy ý; tôi
cũng như vậy, có thể đến thẩm định ba lần Sa-môn Cù-đàm việc
như vậy, rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Cũng như con voi chúa đã
sáu mươi tuổi, là một đại long tượng kiêu ngạo[12],
đủ ngà, đủ vóc, gân sức mạnh mẽ, một lực sĩ dẫn đi, lấy nước
rửa bắp vế, rửa xương sống, rửa sườn, rửa bụng, rửa răng,
rửa đầu và giỡn chơi trong nước; tôi cũng như vậy, có thể
đến thẩm định ba lần với Sa-môn Cù-đàm việc như vậy, rồi tùy
theo chỗ mà tẩy. Tôi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm cùng ông bàn
luận, hàng phục xong rồi trở về.”
Ni-kiền Thân Tử nới với Cư sĩ Ưu-ba-ly rằng:
“Ta cũng có thể hàng phục Sa-môn Cù-đàm. Ông
cũng có thể. Ni-kiền Trường Khổ Hạnh cũng có thể vậy.”
Khi ấy, Ni-kiền Trường Khổ Hạnh thưa với
Ni-kiền Thân Tử:
“Con không muốn để cho Cư sĩ Ưu-ba-ly đi đến
chỗ Sa-môn Cù-đàm. Vì sao như vậy? Vì Sa-môn Cù-đàm biết chú
huyễn hóa, có thể dùng chú thuật biến hóa làm đệ tử,
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Con sợ Cư sĩ
Ưu-ba-ly bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa, hóa làm đệ tử.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Khổ Hạnh, Cư sĩ Ưu-ba-ly mà bị Sa-môn Cù-đàm
biến hóa, hóa làm đệ tử, việc đó hoàn toàn không có. Sa-môn
Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến hóa làm đệ tử, chắc chắn có
việc ấy.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly thưa lại lần thứ ba với
Ni-kiền Thân Tử rằng:
“Hôm nay con đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm cùng
ông ấy đàm luận. Hàng phục xong, con trở về.”
Ni-kiền Thân Tử cũng đáp lại lần thứ ba rằng:
“Ông nên đi nhanh đi. Ta cũng có thể hàng
phục Sa-môn Cù-đàm. Ông cũng có thể. Ni-kiền Trường Khổ Hạnh
cũng có thể vậy.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh bạch lại lần thứ ba
rằng:
“Con không muốn để cho Cư sĩ Ưu-ba-ly đi đến
chỗ Sa-môn. Vì sao vậy? Vì Sa-môn Cù-đàm biết chú huyễn hóa,
có thể dùng chú thuật biến hóa làm đệ tử, Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Con sợ Cư sĩ Ưu-ba-ly bị
Sa-môn Cù-đàm biến hóa làm đệ tử.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Khổ Hạnh, Cư sĩ Ưu-ba-ly bị Sa-môn Cù-đàm
biến hóa làm đệ tử, việc đó hoàn toàn không có. Sa-môn
Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến hóa làm đệ tử, chắc chắn có
việc ấy. Cư sĩ Ưu-ba-ly, người đi tùy ý.”
Lúc ấy, Cư sĩ Ưu-ba-ly cúi đầu sát chân
Ni-kiền Thân Tử ba lần rồi đi đến chỗ Phật, chào hỏi Phật
rồi ngồi sang một bên, hỏi rằng:
“Thưa Cù-đàm, ngày hôm nay Ni-kiền Trường Khổ
Hạnh có đến đây không?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Cư sĩ, có đến.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly hỏi:
“Cù-đàm, có cùng với Ni-kiền Trường Khổ Hạnh
đàm luận chăng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Có cùng đàm luận.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói:
“Cù-đàm, nếu đã cùng với Ni-kiền Trường Khổ
Hạnh đàm luận, xin Ngài thuật lại hết cho tôi nghe. Hoặc
giả, sau khi nghe xong, tôi biết được việc đó.”
Rồi Thế Tôn thuật hết lại những điều mà Ngài
cùng với Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đàm luận cho Ưu-ba-ly nghe.
Lúc đó Cư sĩ Ưu-ba-ly nghe rồi, khen rằng:
“Hay thay Khổ Hạnh! Như vậy mới gọi là đối
với Tôn sư làm đúng việc thực hành pháp của một đệ tử. Điều
phải làm được thành biện bằng trí tuệ, với quyết định thông
minh, với sự trầm tĩnh không sợ hãi, với sự hoàn toàn tự tin
tưởng, đạt đến đại biện tài, bắt được ngọn cờ cam lộ, ở
trong cảnh giới cam lộ mà tự tác chứng, thành tựu an trụ. Vì
sao như vậy? Vì đã đối với Sa-môn Cù-đàm mà trình bày thân
phạt là tối thượng để không hành ác nghiệp, không gây ác
nghiệp. Khẩu phạt không như vậy, ý càng kém hơn, không bằng
thân phạt, vốn rất lớn lao, rất nặng nề”.
Khi đó Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Cư sĩ, ta muốn cùng ông bàn luận về việc
này. Nếu như ông an trụ trong sự thật, thì bằng sự thật mà
đáp.”[13]
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Cù-đàm, tôi an trụ trong sự thật, bằng sự
thật mà đáp. Sa-môn Cù-đàm, hãy nên cùng tôi bàn luận việc
này.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Cư sĩ, ông nghĩ sao? Ở đây nếu Ni-kiền ưa bố
thí, thích hành việc bố thí, không hý luận, ưa sự không hý
luận, rất thanh tịnh, chuyên hành chú[14].
Nếu khi người ấy đi đến đây, đạp chết nhiều côn trùng lớn
nhỏ, thì thế nào, Cư sĩ, Ni-kiền Thân Tử đối với việc sát
sanh này chủ trương có quả báo ra sao?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, nếu người ấy cố ý thì có tội
lớn, nếu không cố ý[15]
thì không có tội lớn.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Cư sĩ, ông nói cố ý là thế nào?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, đó là ý nghiệp[16]
vậy.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông nên suy nghĩ rồi trả lời. Những
điều nói trước trái với điều sau, sau trái với điều trước,
không phù hợp nhau. Cư sĩ, ông ở trong chúng này tự nói:
‘Cù-đàm, tôi an trụ trong sự thật, bằng sự thật mà đáp.
Sa-môn Cù-đàm, hãy nên cùng tôi bàn luận việc này’. Cư sĩ,
ông nghĩ sao? Nếu có Ni-kiền chỉ uống nước nóng, dứt hẳn
nước lạnh[17].
Nhưng khi không có nước nóng bèn muốn uống nước lạnh. Không
có nước lạnh người ấy liền chết. Này Cư sĩ, Ni-kiền Thân Tử
có thể nói thế nào về chỗ thác sanh của Ni-kiền ấy?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, có loại trời gọi là Ý trước[18].
Vị Ni-kiền đó mạng chung, do ý có chấp trước tất sanh vào
chỗ ấy.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông nên suy nghĩ rồi sẽ trả lời.
Những điều ông nói trước trái với sau, sau trái với trước,
không phù hợp nhau. Cư sĩ, ông ở trong chúng này tự nói:
‘Cù-đàm, tôi an trụ trong sự thật, bằng sự thật mà đáp.
Sa-môn Cù-đàm, hãy nên cùng tôi bàn luận việc này’. Cư sĩ,
ông nghĩ sao, giả sử có người cầm dao bén tới đây, người ấy
nói rằng: ‘Trong một ngày tôi chém đầu, lột da, xẻ thịt tất
cả chúng sanh ở trong xứ Na-nan-đà này chất thành đống thịt,
làm thành khối thịt’. Cư sĩ, ông nghĩ sao, người ấy có thể
trong một ngày mà chém đầu, lột da, xẻ thịt tất cả chúng
sanh ở xứ Na-nan-đà này chất thành đống thịt, làm thành một
khối thịt không?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Không thể. Vì sao như vậy? Xứ Na-nan-đà này
quá giàu có an vui, nhân dân đông đúc, cho nên người ấy chắc
chắn không thể trong một ngày mà chém đầu, lột da, xẻ thịt
tất cả chúng sanh chất thành đống thịt, làm thành khối thịt
được. Thưa Cù-đàm, người ấy chỉ gây phiền nhọc vô ích.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông nghĩ sao, nếu có Sa-môn, Phạm chí
đến, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có
đại oai thần, tâm được tự tại, người ấy nói như vầy: ‘Ta chỉ
khởi một niệm sân, làm cho cả xứ Na-nan-đà này thiêu rụi
thành tro’. Này Cư sĩ, ông nghĩ sao? Sa-môn, Phạm chí ấy có
thể làm cho cả Na-nan-đà này thiêu rụi thành tro không?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, đâu phải chỉ một Na-nan-đà, đâu
phải chỉ hai hoặc ba, hoặc bốn; mà thưa Cù-đàm, Sa-môn Phạm
chí kia có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu,
có đại oai thần, tâm được tự tại, nếu khởi lên niệm sân thì
có thể làm cho hết thảy các nước, hết thảy nhân dân thiêu
rụi thành tro, sá gì một Na-nan-đà?”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông nên suy nghĩ rồi sẽ trả lời.
Những điều nói trước trái với sau, sau trái với trước, không
phù hợp nhau. Ông ở tại chúng này tự nói: ‘Sa-môn Cù-đàm,
tôi an trú trong sự thật, bằng sự thật mà đáp. Sa-môn
Cù-đàm, hãy nên cùng tôi bàn luận việc này’.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Cư sĩ, ông có từng nghe rừng Đại-trạch, rừng
Kỳ-lân, rừng Mê-lộc, rừng Tĩnh tịch, rừng Không dã; tại sao
những khu rừng ấy là những khu rừng?[19]“
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, tôi có nghe.”
“Cư sĩ, ông nghĩ sao? Vì ai mà rừng
Đại-trạch, rừng Kỳ-lân, rừng Mê-lộc, rừng Tĩnh tịch, rừng
Không dã, tại sao những khu rừng này là những khu rừng?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly im lặng không đáp.
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, hãy trả lời nhanh đi! Hãy trả lời
nhanh đi! Bây giờ không phải là lúc im lặng. Cư sĩ! Ở tại
chúng này, ông tự nói: ‘Thưa Cù-đàm, tôi an trú trong sự
thật, bằng sự thật mà đáp. Sa-môn Cù-đàm, hãy nên cùng tôi
bàn luận việc này’.”
Lúc ấy, Cư sĩ Ưu-ba-ly chỉ im lặng trong chốc
lát rồi nói:
“Thưa Cù-đàm, tôi không im lặng. Tôi chỉ suy
nghĩ về ý nghĩa này vậy. Thưa Cù-đàm, bọn Ni-kiền ngu si kia
không hiểu rõ ràng, không thể giải biết, không biết khoảnh
ruộng tốt mà không tự xét, cứ mãi lừa dối tôi, tôi mê lầm vì
họ, nghĩa là vì nhắm đến Sa-môn Cù-đàm mà họ chủ trương thân
phạt là nặng nhất để không làm ác nghiệp, không gây ác
nghiệp, khẩu phạt và ý phạt không bằng. Nếu như theo những
điều mà Sa-môn Cù-đàm đã nói, tôi hiểu ý nghĩa rằng, bởi vì
Tiên nhân khởi một niệm sân mà có thể làm cho rừng
Đại-trạch, rừng Kỳ-lân, rừng Mê-lộc, rừng Tĩnh tịch, rừng
Không dã, những khu rừng này trở thành những khu rừng.
“Bạch Thế Tôn, con đã biết. Bạch Thiện Thệ,
con đã hiểu. Hôm nay con xin quy y Phật, Pháp và chúng
Tỳ-kheo. Cúi xin Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc. Từ nay về
sau, trọn đời con quy y cho đến khi chết”.
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông hãy im lặng mà làm, không nên lớn
tiếng tuyên bố[20].
Sự im lặng của người thù thắng[21]
như vậy là tốt đẹp.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly bạch:
“Bạch Thế Tôn, với sự kiện này, đối với Thế
Tôn con lại bội phần hoan hỷ. Vì sao như vậy? Vì Thế Tôn đã
nói như thế này: “Cư sĩ, ông hãy im lặng mà làm, không nên
lớn tiếng tuyên bố. Sự im lặng của người thù thắng như vậy
là tốt đẹp’.
“Bạch Thế Tôn, nếu như con mà làm đệ tử của
các Sa-môn, Phạm chí khác thì họ đã cầm tràng phan, dù lọng
đi tuyên bố khắp nơi Na-nan-đà, nói như thế này: ‘Cư sĩ
Ưu-ba-ly đã làm đệ tử ta! Cư sĩ Ưu-ba-ly đã làm đệ tử ta!’
Nhưng Thế Tôn lại nói như thế này: ‘Cư sĩ, ông hãy im lặng
mà làm, không nên lớn tiếng tuyên bố. Sự im lặng của người
thù thắng như vậy là tốt đẹp’.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly lại bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, từ nay về sau con không cho
các Ni-kiền đi vào nhà con. Chỉ có bốn chúng đệ tử Thế Tôn,
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào mà thôi.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, các Ni-kiền kia cùng với gia đình ông
trong một thời gian dài đã tôn kính nhau. Nếu họ có đến thì
ông nên tùy theo khả năng của mình mà cúng dường họ.”
Ưu-ba-ly bạch:
“Bạch Thế Tôn, với sự kiện này, đối với Thế
Tôn con lại bội phần hoan hỷ. Vì sao như vậy? Vì Thế Tôn đã
nói như thế này: ‘Cư sĩ, các Ni-kiền kia đối với gia đình
ông trong một thời gian dài đã tôn kính nhau. Nếu họ có đến
thì ông nên tùy theo khả năng của mình mà cúng dường họ’.
Bạch Thế Tôn, ngày trước con nghe nói Thế Tôn dạy như thế
này: ‘Nên cho Ta, đừng cho người khác. Nếu cho Ta sẽ được
phước lớn, nếu cho người khác thì không được phước lớn. Cho
đệ tử Ta thì sẽ được phước lớn, cho đệ tử người khác thì
không được phước lớn’.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, Ta không nói như thế. Ta không nói
rằng: ‘Nên cho Ta chứ đừng cho người khác. Cho đệ tử Ta chứ
đừng cho đệ tử người khác. Nếu cho Ta thì phước lớn, nếu cho
người khác thì không được phước lớn. Cho đệ tử Ta sẽ được
phước lớn, nếu cho đệ tử người khác thì không được phước
lớn’. Cư sĩ, Ta nói như thế này: ‘Hãy cho tất cả tùy theo
tâm hoan hỷ. Nhưng cho người không tinh tấn không được phước
lớn. Cho người tinh tấn sẽ được phước lớn’.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly bạch:
“Bạch Thế Tôn, xin nguyện không làm vậy[22].
Con tự biết nên cho Ni-kiền hay không nên cho Ni-kiền. Bạch
Thế Tôn, hôm nay một lần nữa con xin tự quy y Phật, Pháp và
chúng Tỳ-kheo. Cúi xin Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc. Từ
nay về sau, trọn đời quy y cho đến khi chết.”
Khi ấy Đức Thế Tôn thuyết pháp cho Cư sĩ
Ưu-ba-ly, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau
khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát
ngưỡng, thành tựu hoan hỷ rồi, như pháp của chư Phật, Đức
Phật trước hết nói pháp đoan chánh[23]
khiến người nghe hoan hỷ, ấy là nói pháp bố thí, trì giới,
sanh thiên, chê bai dục là tai hoạn, sanh tử là nhớp nhơ;
khen vô dục là đạo phẩm vi diệu, là bạch tịnh.
Thế Tôn nói pháp như vậy cho ông nghe xong,
Ngài biết ông có tâm hoan hỷ, tâm cụ túc, tâm nhu nhuyến,
tâm kham nại, tâm tăng thượng, tâm hướng đến, tâm không nghi
ngờ, tâm không triền cái, có năng lực nhận lãnh chánh pháp.
Rồi như pháp chánh yếu mà chư Phật đã nói, Đức Thế Tôn liền
nói Khổ, Tập, Diệt, Đạo cho ông nghe. Cư sĩ Ưu-ba-ly ngay
tại chỗ ngồi đã thấy bốn Thánh đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng
như vải trắng dễ nhuộm sắc màu; cũng vậy, Cư sĩ Ưu-ba-ly
ngay tại chỗ ngồi thấy bốn Thánh đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Ngay khi đó, Cư sĩ Ưu-ba-ly thấy pháp, đắc pháp, biết pháp
bạch tịnh, đoạn nghi độ hoặc, không còn tôn thờ ai khác,
không theo ai khác, không còn do dự, đã trụ quả chứng. Đối
với pháp của Thế Tôn được vô sở úy, liền rời chỗ ngồi đứng
dậy làm lễ Đức Phật:
“Bạch Thế Tôn, hôm nay con ba lần tự quy y
Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo. Cúi xin Thế Tôn nhận con làm
Ưu-bà-tắc. Từ nay về sau, trọn đời con quy y cho đến khi
chết.”
Rồi Cư sĩ Ưu-ba-ly sau khi nghe pháp được
Phật giảng dạy, khéo thọ, khéo trì, cúi đầu lễ chân Phật, đi
quanh ba vòng, trở về nhà bảo người đứng giữ cửa rằng:
“Các ngươi nên biết, nay ta là đệ tử của Đức
Thế Tôn. Từ nay về sau, các Ni-kiền tử đến chớ cho vào cửa,
chỉ cho bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn là Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào mà thôi. Nếu có Ni-kiền
đến thì nói với họ rằng: ‘Tôn giả, Cư sĩ Ưu-ba-ly nay được
Phật cải hóa, đã hóa làm đệ tử Phật, nên không cho các
Ni-kiền vào cửa, chỉ cho bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn là
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào mà thôi. Nếu
người cần thức ăn, hãy đứng đó. sẽ đem thức ăn ra cho.”
Khi đó, Ni-kiền Trường Khổ Hạnh nghe Cư sĩ
Ưu-ba-ly đã được Sa-môn Cù-đàm cải hóa, hóa làm đệ tử và
không cho Ni-kiền vào cửa, chỉ cho đệ tử của Sa-môn Cù-đàm
là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào. Ni-kiền
Trường Khổ Hạnh nghe xong như vậy rồi đi đến chỗ Ni-kiền
Thân Tử bạch rằng:
“Thưa tôn sư, đây điều con đã nói trước.”
Ni-kiền Thân Tử hỏi:
“Khổ Hạnh, điều gì gọi là điều ngươi đã nói
trước?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Thưa tôn sư, con đã nói trước rằng: ‘Không
muốn cho Cư sĩ Ưu-ba-ly đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm. Vì sao như
vậy? Vì Sa-môn Cù-đàm biết chú huyễn hóa, có thể dùng chú
thuật hóa làm đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di. Con sợ rằng Cư sĩ Ưu-ba-ly sẽ bị Sa-môn Cù-đàm
biến hóa, hóa làm đệ tử’. Thưa tôn sư, Cư sĩ Ưu-ba-ly nay đã
bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa, hóa làm đệ tử rồi, không cho các
Ni-kiền vào cửa, chỉ cho đệ tử Sa-môn Cù-đàm là Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Khổ Hạnh, Cư sĩ Ưu-ba-ly bị Sa-môn Cù-đàm
biến hóa làm đệ tử, việc ấy hoàn toàn không có. Sa-môn
Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến hóa làm đệ tử, việc ấy chắc
chắn có.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh bạch lại:
“Thưa tôn sư, nếu không tin lời con nói, thì
tôn sư có thể thân hành đến, hoặc sai người đến.”
Khi ấy, Ni-kiền thân tử bảo:
“Khổ Hạnh, ông nên thân hành đến đó xem sao.
Có phải Cư sĩ Ưu-ba-ly đã bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa làm đệ
tử rồi chăng? Hay là Sa-môn Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến
hóa làm đệ tử rồi?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh vâng lệnh Ni-kiền
Thân Tử, đi đến nhà Cư sĩ Ưu-ba-ly. Người giữ cửa vườn trông
thấy Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đến, liền nói như thế này:
“Tôn giả, Cư sĩ Ưu-ba-ly nay đã được Phật cải
hóa, hóa thành đệ tử Phật rồi, nên không cho các Ni-kiền vào
cửa, chỉ cho bốn chúng đệ tử của Thế Tôn là Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào thôi. Nếu ngài muốn nhận
thức ăn thì nên đứng đó, con sẽ đem thức ra cho.
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh nói:
“Người giữ cửa, ta không cần thức ăn.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh biết việc này như vậy
rồi, lắc đầu bỏ đi, về tới chỗ Ni-kiền Thân Tử thưa:
“Thưa tôn sư, đây là điều con đã nói trước.”
Ni-kiền thân tử hỏi:
“Khổ Hạnh, cái gì gọi là điều ông đã nói
trước?”
Trường khổ hạnh Ni-kiền đáp:
“Thưa tôn sư, tôi đã nói rằng: ‘Không muốn
cho Cư sĩ Ưu-ba-ly đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm. Vì sao như vậy?
Vì Sa-môn Cù-đàm biết chú huyễn hóa, có thể dùng chú thuật
hóa làm đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Con
sợ rằng Cư sĩ Ưu-ba-ly sẽ bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa, hóa làm
đệ tử’. Thưa tôn sư, Cư sĩ Ưu-ba-ly nay đã bị Sa-môn Cù-đàm
biến hóa, hóa làm đệ tử rồi, không cho các Ni-kiền vào cửa,
chỉ cho đệ tử Sa-môn Cù-đàm là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Khổ Hạnh, Cư sĩ Ưu-ba-ly bị Sa-môn Cù-đàm
biến hóa làm đệ tử, việc ấy hoàn toàn không có. Sa-môn
Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến hóa làm đệ tử, việc ấy chắc
chắn có.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh bạch lại:
“Thưa tôn sư, nếu không tin lời con nói, thì
tôn sư có thể thân hành đến.
Lúc đó Ni-kiền thân tử và đại chúng Ni-kiền
năm trăm người cùng đi đến nhà Cư sĩ Ưu-ba-ly. Người giữ cửa
vừa trông thấy Ni-kiền Thân Tử và đại chúng Ni-kiền năm trăm
người kéo đến, nói như thế này: “Thưa Tôn giả, Cư sĩ
Ưu-ba-ly nay đã được Phật cải hóa, hóa thành đệ tử Ngài rồi,
nên không cho các Ni-kiền vào cửa, chỉ cho bốn chúng đệ tử
của Thế Tôn là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào
cửa mà thôi. Nếu ngài muốn nhận thức ăn thì nên đứng đó, con
sẽ đem thức ăn ra cho.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Người giữ cửa, ta không cần thức ăn, Ta chỉ
muốn gặp Cư sĩ Ưu-ba-ly.”
Người giữ cửa nói:
“Xin ngài đứng đó, để con thưa với Cư sĩ
Ưu-ba-ly.”
Người giữ cửa kia liền vào thưa rằng:
“Thưa Cư sĩ, Ni-kiền Thân Tử cùng đại chúng
Ni-kiền năm trăm người đứng ở ngoài cửa, nói như thế này:
‘Ta muốn được gặp Cư sĩ Ưu-ba-ly.’”
Cư sĩ Ưu-ba-ly bảo người giữ cửa:
“Ngươi đến cửa giữa[24]
trải bày tòa ngồi. Bày xong trở lại cho ta biết.”
Người giữ cửa vâng lệnh, đi đến cửa giữa trải
bày giường ngồi xong rồi trở lại thưa:
“Thưa Cư sĩ, đã trải giường xong, kính mong
Cư sĩ tự biết thời.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly dẫn người giữ cửa đi đến nhà
giữa. Ở đó có một cái giường thật cao rộng, to lớn, rất sạch
sẽ, được trải khéo léo, đó là chỗ Cư sĩ Ưu-ba-ly trước kia
đã bế[25]
Ni-kiền Thân Tử để ngồi lên đó, thì bây giờ Cư sĩ Ưu-ba-ly
tự leo lên ngồi kiết già, bảo với người giữ cửa:
“Ngươi ra chỗ Ni-kiền Thân Tử nói như thế
này: ‘Tôn nhân, Cư sĩ Ưu-ba-ly nói tôn nhân muốn vào thì tùy
ý’.”
Người giữ cửa vâng lệnh đi ra, đến chỗ
Ni-kiền nói như thế này:
“Tôn nhân, Cư sĩ Ưu-ba-ly nói: Tôn nhân muốn
vào thì tùy ý.”
Lúc đó, Ni-kiền Thân Tử và đại chúng Ni-kiền
năm trăm người cùng đến nhà giữa. Cư sĩ Ưu-ba-ly vừa trông
thấy Ni-kiền Thân Tử và đại chúng Ni-kiền năm trăm người
cùng vào, nói như thế này:
“Tôn nhân, ở đây có chỗ ngồi, muốn ngồi xin
tùy ý.”
Ni-kiền thân tử nói:
“Cư sĩ, ông làm như vậy phải lẽ chăng? Tự
mình lên tòa cao ngồi kiết già cùng nói chuyện với người như
người xuất gia học đạo không khác?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói:
“Tôn nhân, tôi có đồ vật của mình, muốn cho
thì cho, không cho thì không cho. Chỗ ngồi này là của tôi,
cho nên tôi nói có chỗ ngồi, muốn ngồi xin tùy ý.”
Ni-kiền Thân Tử trải chỗ ngồi mà ngồi, rồi
nói rằng:
“Cư sĩ, vì sao như vậy? Muốn hàng phục Sa-môn
Cù-đàm nhưng khi trở về đã bị hàng phục. Cũng như có người
vào rừng nên đi tìm con mắt, nhưng khi trở về bị mất con
mắt. Cũng vậy, Cư sĩ, muốn đến hàng phục Sa-môn Cù-đàm nhưng
khi trở về đã bị hàng phục. Cũng như người vì khát mà xuống
ao; nhưng trở lên vẫn cứ khát. Cư sĩ cũng như vậy, muốn đi
chinh phục Sa-môn Cù-đàm, thì bị chinh phục ngược trở lại.
Cư sĩ, vì sao như vậy?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói:
“Tôn nhân, xin nghe tôi nói dụ. Người trí tuệ
nghe dụ thì hiểu được ý nghĩa. Tôn nhân, ví như có một người
Phạm chí có người vợ trẻ. Người vợ kia đang có thai, nói với
chồng rằng: ‘Tôi nay mang thai, anh hãy đến chợ mua đồ chơi
đẹp về cho con’. Lúc đó, Phạm chí kia nói với vợ rằng: “Chỉ
mong em được bình yên sinh sản, rồi lo gì mà không có. Nếu
sanh con trai thì mua đồ chơi con trai cho nó. Nếu sanh con
gái thì mua đồ chơi con gái cho nó’. Người vợ lại ba lần nói
với chồng: ‘Tôi nay đang mang thai, anh hãy đến chợ mua đồ
chơi về cho con’. Phạm chí đã ba lần nói lại với vợ rằng:
Chỉ mong em được bình yên sanh sản, rồi lo gì mà không có.
Nếu sanh con trai thì phải mua đồ chơi con trai. Còn nếu
sanh con gái thì mua đồ chơi con gái’. Phạm chí kia thương
vợ quá sức, liền nói rằng: ‘Em muốn mua đồ chơi gì cho con?’
Người vợ đáp: ‘Anh mua đồ chơi đẹp là con khỉ con’. Phạm chí
nghe rồi, đi vào chợ mua đồ chơi đẹp bằng con khỉ con, đem
về nói với vợ: ‘Tôi đã mua đồ chơi đẹp bằng khỉ con về đây’.
Người vợ thấy rồi chê rằng màu sắc không đẹp, liền nói với
chồng: ‘Anh nên đem thứ đồ chơi khỉ con này thợ nhuộm màu
vàng để được rất dễ thương hơn và nhồi cho nó phát ra ánh
sáng’. Phạm chí nghe xong, liền cầm đồ chơi con khỉ con đến
thợ nhuộm, nói rằng: ‘Hãy nhuộm đồ chơi khỉ con này thành
sắc vàng, làm cho nó rất dễ thương và nhồi cho nó phát ra
ánh sáng cho tôi’. Khi ấy người thợ nhuộm nói với Phạm chí:
‘Đồ chơi khỉ con nhuộm thành màu vàng làm cho dễ thương,
việc này làm được, nhưng không thể nhồi cho nó phát ra ánh
sáng được’.
“Khi ấy người thợ nhuộm nói tụng này:
- ‘Khỉ nhỏ
tiếp nhận sắc,
- Không hay
chịu đảo nhồi.
- Nếu nhồi,
nó sẽ chết;
- Chịu sao
được với chày?
- Đây là đãy
xú uế,
- Khỉ con đầy
bất tịnh’.
“Thưa Tôn nhân, nên biết, những điều được
Ni-kiền thuyết cũng giống như vậy, không thể chịu đựng được
những nạn vấn của người khác, cũng không thể suy nghĩ quán
sát được. Chỉ có nhuộm sự ngu si, không nhuộm trí tuệ. Tôn
nhân, xin hãy nghe đấy. Cũng như chiếc áo Ba-la-nại thanh
tịnh, người chủ cầm đến thợ nhuộm, nói rằng: ‘Nhuộm giùm
chiếc áo này thành cực đẹp, làm cho dễ yêu, cũng đập nhồi kỹ
cho nó phát ánh sáng’. Lúc đó, thợ nhuộm bảo với chủ áo
rằng: ‘Áo này có thể nhuộm thành màu sắc cực đẹp, làm cho dễ
ưa; cũng có thể đập nhồi cho phát ánh sáng’.
“Khi ấy thợ nhuộm nói tụng này:
- ‘Như vải
Ba-la-nại,
- Trắng sạch,
chịu sắc màu;
- Đập xong
thời mềm mại,
- Sáng chói,
càng thêm đẹp’.
“Thưa Tôn nhân, những điều các Đấng Như Lai,
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác đã dạy cũng như vậy; rất đủ khả
năng chịu đựng những nạn vấn của kẻ khác, cũng có thể suy
nghĩ quán sát một cách thỏa đáng được; chỉ có nhuộm trí tuệ,
không nhuộm ngu si.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Cư sĩ, ông đã bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa bằng
chú huyễn thuật.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói:
“Tôn nhân, thật tốt đẹp loại chú huyễn hóa
ấy, rất tốt đẹp loại chú huyễn hóa. Thưa Tôn nhân, loại chú
huyễn hóa đó làm cho cha mẹ tôi được lợi ích an ổn, khoái
lạc lâu dài; vợ con, nô tỳ, người giúp việc, quốc vương
Na-nan-đà và tất cả thế gian, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn,
Phạm chí, từ người đến trời, làm cho họ được lợi ích an ổn
khoái lạc lâu dài.”
Ni-kiền thân tử nói:
“Cư sĩ, toàn cõi Na-nan-đà đều biết Cư sĩ
Ưu-ba-ly là đệ tử Ni-kiền, nay đây cuối cùng là đệ tử của
ai?”
Khi ấy, Cư sĩ Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, gối phải quỳ xuống đất, nhắm phương có Phật, chắp tay
hướng về, nói:
“Tôn nhân, hãy nghe điều tôi nói đây:
- Đại Hùng,
trừ si ngốc;
- Diệt uế,
bắt hàng phục.
- Vô địch, vi
diệu tư,
- Học giới,
thiền, trí tuệ;
- An ổn không
bợn nhơ;
- Ba-ly đệ tử
Phật.
- Bậc Đại
Thánh tu nhiều;
- Thành đức
tự tại thuyết.
- Khéo niệm,
quán sát mầu;
- Không thấp,
cũng không cao;
- Bất động,
thường tự tại;
- Ba-ly đệ tử
Phật.
- Không cong,
thường biết đủ;
- Thỏa mãn,
trừ xan tham;
- Hiện Sa-môn
chứng ngộ,
- Tôn đại sĩ,
hậu thân;
- Vô tỷ,
không nhiễm trần;
- Ba-ly đệ tử
Phật.
- Bao dung,
không ganh ghét;
- Đấng Tịch
Mặc nhiệm mầu,
- Dũng mãnh,
hằng an ổn;
- Trụ pháp,
vi diệu tư,
- Chế ngự,
không hý bỡn;
- Ba-ly đệ tử
Phật.
- Đại long
sống vượt tục,
- Giải trừ
mọi sử kiết,
- Ưng thanh
tịnh biện tài,
- Tuệ phát,
dứt vui buồn;
- Đức
Thích-ca, cõi ngoài;
- Ba-ly đệ tử
Phật.
- Thiền tư
duy Chánh pháp,
- Thanh tịnh,
nhiễu loạn trừ;
- Thường
cười, không hờn giận;
- Đệ nhất đời
viễn ly.
- Thường
chuyên tinh, vô úy
- Ba Ly đệ tử
Phật
- Bậc Thất
Tiên[26]
vô đẳng,
- Chứng tịnh
hạnh, tam minh[27].
- Tắm sạch,
như đèn sáng
- Yên nghỉ,
dứt oán kết;
- Dũng mãnh,
cực thanh tịnh’
- Ba-ly đệ tử
Phật.
- Tịch tĩnh,
tuệ như đất;
- Trí trừ
tham thế gian;
- Đáng thờ,
con mắt siêu;
- Thượng sỹ
không ai sánh;
- Tự điều
ngự, triệt sân;
- Ba-ly đệ tử
Phật.
- Đoạn dục[28],
vô thượng thiện;
- Khéo điều
ngự vô song;
- Vô thượng
thường hoan hỷ;
- Trừ nghi,
rực sắc quang;
- Đoạn mạn,
vô thượng giác;
- Ba-ly đệ tử
Phật.
- Đoạn ái,
giác tối thượng;
- Khói tan,
lửa đã tắt;
- Đấng Như
Khứ[29],
Thiện Thệ;
- Đấng Vô
Đẳng, Tối Tôn;
- Đấng Đại
Danh, Chân Chánh;
- Ba-ly đệ tử
Phật.
- Trăm lời
tán Phật này,
- Tự phát,
không cần suy.
- Những sự
Ba-ly nói,
- Chư Thiên
đến hội tề.
- Khéo gia
sức hùng biện;
- Đúng pháp,
đúng nhân tài.
- Ni-kiền
thân tử hỏi:
- ‘Đệ tử của
Như Lai’.”
- Ni-kiền
Thân Tử hỏi:
- “Cư sĩ, ông
ca ngợi Sa-môn Cù-đàm với ý gì?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Hãy nghe tôi nói dụ, người trí nghe dụ thì
hiểu rõ ý nghĩa. Như thầy trò người làm tràng hoa, chọn các
loại hoa, dùng dây dài kết làm các loại tràng hoa. Cũng vậy,
này Tôn nhân, Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, có
vô lượng xưng tán, là đấng tối tôn thờ, nên tôi ca ngợi.”
Khi nói pháp này, Cư sĩ Ưu-ba-ly xa lìa trần
cấu, phát sanh con mắt pháp thấy các pháp. Ni-kiền Thân Tử
liền mửa máu nóng, rồi đến nước Bà-hòa[30]
vì bệnh này mà mạng chung.
Phật nói như vậy, Cư sĩ Ưu-ba-ly nghe lời
Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán,
quyển 32. Tương đương Pāli, M. 56. Upāli-sutta
-
[02] Na-nan-đà.
Pāli: Nāandā.
-
[03] Ba-bà-ly nại
lâm. Pāli: Pāvārikambavana, khu rừng xoài của Pāvārika,
một đại phú tại Nālānda (Na-nan-đà), một thị trấn ở gần
Rājagaha.
-
[04] Trường Khổ
Hạnh Ni-kiền. Pāli: Dīghatapassī-nigantha, một đệ tử của
Nigaha-Nātaputta (Ni-kiền Thân Tử).
-
[05] Ni-kiền Thân
Tử, Nigaha-Nātaputta.
-
[06] Hán: kỷ hành
linh bất hành ác nghiệp bất tác ác nghiệp. Pāli:
kati…kammāni paññapeti pāpassa kammassa kiriyāya pāpassa
kammassa pavattiyā’ti, có bao nhiêu nghiệp để thi hành ác
nghiệp, để tiến hành ác nghiệp?
-
[07] Tam phạt:
thân phạt, khẩu phạt, ý phạt. Pāli: tii … daiāni
paññapeti… seyyathidam, kāyadaa vacīdaa manodaa.
-
[08] Sở tác trí
biện, thông minh quyết định, an ổn vô úy, thành tựu điều
ngự, đãi đắc biện tài đắc cam lộ tràng, ư cam lộ giới, tự
tác chứng thành tựu du. Lời khen ngợi này cũng giống như
lời khen ngợi giữa Tôn giả Xá-lợi-phất và Mãn Từ Tử trong
kinh số 9 trên.
-
[09] Ưu-ba-ly cư
sĩ, đệ tử tại gia của Ni-kiền Thân Tử. Pāli: Upāli-
gahapati.
-
[10] Chấp trường
mao dương. Pāli: dīghalomika eaka lomesu gahetvā, túm lấy
lông của con dê có lông dài.
-
[11] Cô tửu
sư(nhà bán rượu). Cô, Tống-Nguyên-Minh: 酤; Pāli, gồm hai
thí dụ: balavā soṇḍikākammakaro, lực sĩ nấu ruợu; và
balavāsoiḍikādhutto, lực sĩ say rượu.
-
[12] Kiêu ngạo
Ma-ha-năng-già. Không rõ Pāli; nhưng Sanskrit có thể là
pramādana-mahānāga, con voi chúa say rượu; thay vì
pra-māna- (kiêu mạn). Thí dụ này, trong bản Pāli: (…)
kuñjaro sahihāyano, con voi già sáu mươi tuổi.
-
[13] Pāli: sace
kho tva gahapati sacce patihāya manteyyāsi siyā no ettha
kathāsallāpo ti, “nếu ông an trú trên sự thật mà tư duy
thì ở đây có thể có hội thoại của chúng ta”.
-
[14] Trong bản
Pāli, đề cập bốn chế giới của Ni-kiền Tử,
cātuyāmasavarasavutto: sabbavārivārito sabbavāriyutto
sabbavāridhuto sabbavāriphuo, hoàn toàn cấm chỉ nước, hoàn
toàn chuyên tâm (vào sự cấm chế tất cả nước).
-
[15] Hán: tư, và
vô tư. Pāli: cetana; và asañcetanika.
-
[16] Bản Hán, tư
tức ý nghiệp. Bản Pāli: tư trong trường hợp này là ý phạt:
cetanṃ… manodaiami.
-
[17] Pāli: (…)
nigaho ābādhika… sītodakapaikkhito uhodakapaisevī, có
người Ni-kiền bệnh… không uống nước lạnh, mà chỉ uống nước
nóng.
-
[18] Ý trước
(thiên). Pāli: Manosatta, những ai khi chết mà còn có chỗ
chấp trước sẽ tái sinh vào đây.
-
[19] Đại-trạch vô
sự, Kỳ-lân vô sự, Mi-lộc vô sự, Tĩnh tịch vô sự, Không dã
vô sự. Tham chiếu dẫn chứng của Duy thức nhị thập luận:
rừng Đàn-trạch-ca, rừng Ma-đăng-già, rừng Kiết-lăng-già.
Những khu rừng này trước kia vốn là những đô thị trù phú,
nhưng do sự phẫn nộ của các đạo sĩ, chúng trở thành rừng
xanh. (Xem giải thích của Khuy Cơ, Duy thức nhị thập luận
thuật ký. No.1834, trang 1005 a và tt). Các khu rừng được
kể trong bản Pāli: Daakārañña Kāligārañña Mejjhārañña
Mātagārañña.
-
[20] Hán: mặc
nhiên hành…; Pāli: manasi karohi…manasi karitvā vyākarohi:
hãy suy nghĩ chín chắn. Suy nghĩ chín chắn rồi hãy tuyên
bố.
-
[21] Thắng nhân.
Pāli nói: ñāta-nanussa, người nổi tiếng, vì Upāli vốn là
nhân vật nổi tiếng.
-
[22] Nguyện vô vi
dã. Không rõ nghĩa chính xác.
-
[23] Đoan chánh
pháp. Trong bản Pāli: anupubbikathā, thuận tự pháp thoại.
-
[24] Hán: trung
môn. Pāli: majjhimāya dvārasālāya, căn nhà (phòng) giữa có
trổ cửa lớn.
-
[25] Hán: bão.
Tống-Nguyên-Minh: thí.
-
[26] Đức Thích-ca
cũng được xưng hiệu là Đệ Thất Tiên.
-
[27] Nguyên Hán:
tam đạt.
-
[28] Hán: đoạn
vọng.
-
[29] Như khứ,
cùng nghĩa với Như Lai. Đối với Niết-bàn mà nói là Như
Lai, đối với sanh tử mà nói là Như khứ.
-
[30] Ba-hòa
quốc.Tức Pāli: Pāva; xem kinh số 196.