-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại phía Đông thành
Vương xá, nước Ma-kiệt-đà, trong động đá Nhân-đà-la, trên núi
Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn Nại lâm[02].
Bấy giờ Thiên Vương Thích[03]
nghe Phật du hóa tại phía Đông thành Vương xá, nước
Ma-kiệt-đà, trong động Nhân-đà-la, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc
thôn Nại lâm. Khi ấy, Thiên Vương Thích bảo Ngũ Kết nhạc tử[04]
rằng:
“Ta nghe Đức Thế Tôn du hóa tại phía Đông thành
Vương xá, nước Ma-kiệt-đà, trong động Nhân-đà-la, trên núi
Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn Nại lâm. Này Ngũ Kết, ngươi hãy cùng
ta đến yết kiến Đức Thế Tôn”.
Ngũ Kết nhạc tử thưa rằng:
“Xin vâng.”
Rồi thì, Ngũ kết nhạc tử ôm đàn lưu ly[05]
cùng đi theo Thiên Vương Thích. Chư Thiên ở Tam thập tam thiên
nghe Thiên Vương Thích rất khát khao muốn gặp Phật, chư Thiên
Tam thập tam thiên cũng theo hầu Thiên vương mà đi. Bấy giờ
trong khoảnh khắc, nhanh như lực sĩ co duỗi cánh tay, Thiên
Vương Thích cùng chư Thiên Tam thập tam và Ngũ Kết biến mất
khỏi cõi trời Tam thập tam, đã hiện đến phía Đông thành Vương
xá, nước Ma-kiệt-đà, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn Nại lâm,
cách động đá không xa.
Lúc bấy giờ núi Bệ-đà-đề hào quang chiếu sáng
rực rỡ như lửa cháy. Nhân dân ở chung quanh núi thấy vậy nghĩ
rằng: “Núi Bệ-đà-đề bị lửa đốt cháy khắp nơi.”
Khi ấy Thiên Vương Thích sau khi đã đứng xuống
tại một nơi, bảo rằng:
“Này Ngũ Kết, Đức Thế Tôn là như vậy. Ngài ở
trong rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây, thích ở trên
sườn núi cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh, không có sự
dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa, có đại oai
đức; cùng với chư Thiên, ưa thích đời sống xa lánh, tĩnh tọa
ấy, đời sống an ổn khoái lạc ấy. Chúng ta chưa thông báo
trước, không nên tự tiện bước tới. Này Ngũ Kết, ngươi hãy đi
đến thông báo trước, sau đó chúng ta mới bước tới.”
Ngũ kết thưa rằng:
“Xin vâng lời.”
Ngũ Kết sau khi vâng lời dạy của Thiên Vương
Thích, liền ôm đàn lưu ly đi trước, đến động đá Nhân-đà-la,
rồi nghĩ rằng: “Hãy ở nơi này, cách Phật không gần cũng không
xa, để Phật biết được và nghe được âm thanh của ta.”.
Khi đã đến đứng ở nơi kia, Ngũ Kết gảy đàn và
hát lên những bài tụng nói về tình yêu, nói về rồng, nói về
Sa-môn, nói về A-la-hán[06]:
- Hiền nương ơi[07]!
- Ta kính lễ
phụ mẫu nàng;
- Mặt trăng và
Đam-phù-lâu[08];
- Đã sanh nàng
thù diệu,
- Gây hoan lạc
lòng ta.
- Như nóng cầu
gió mát;
- Như khát cầu
nước lạnh;
- Như vậy, ta
yêu nàng,
- Như La-hán
yêu Pháp.
- Như dòng
nước, khó giữ!
- Lụy tình cũng
như vậy.
- Đời đời mong
sống chung,
- Như cúng
dường Vô Trước.
- Ao nước
trong, vừa mát;
- Dưới đáy có
cát vàng[09];
- Như voi chúa[10]
nóng bức,
- Xuống ao tắm
mặc tình.
- Như voi bị
móc câu
- Lòng ta bị
nàng khuất
- Hành động
nàng không hay
- Yểu điệu,
chưa được nàng.
- Tâm ý ta hoàn
toàn lệ thuộc,
- Và phiền oan
đã đốt cháy tim;
- Và vì vậy
không còn hoan lạc,
- Như một người
đi vào hang hùm.
- Như Thích tử
tư duy thiền tọa,
- Hằng vui say
trong sự nhất tâm.
- Như Mâu-ni
đạt thành giác ngộ
[11];
- Cũng diệu
tịnh như ta được nàng.
- Như niềm vui
Đại thánh Mâu-ni[12]
- Do chứng đắc
viên toàn giác đạo.
- Niềm vui ta
cũng ở nơi kia,
- Bằng khao
khát được nàng hội tụ
- Như người
bệnh mong cầu phương dược;
- Như đói ăn
hoài niệm thức ăn;
- Ơi Hiền nữ,
mong lòng ta tắt,
- Như nước rưới
cho ngọn lửa tàn.
- Nếu ta có
hành vi tạo phước,
- Như cúng
dường La-hán chân nhân[13];
- Thọ báo ấy
tức thành tịnh diệu,
- Ta mong cùng
Hiền nữ sống chung.
- Ta ước nguyện
bên nàng vĩnh kiếp;
- Không xa nàng
sống lẻ đơn thân.
- Và ta hẹn
theo nàng được chết,
- Không mong gì
cách biệt ly sanh.
- Ôi, Thiên đế
cho tôi lời nguyện,
- Bậc tôn cao
Tam thập tam thiên!
- Ôi Đại Thánh,
trên đời tối thượng,
- Biết cho tôi
lời nguyện vững bền.
- Kính lễ Đấng
Hùng Lực,
- Tối thượng
giữa nhân gian,
- Dứt trừ gai
ái dục,
- Con lạy Đấng
Nhật Thân[14].
Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ tam-muội dậy, tán thán
Ngũ Kết Nhạc tử:
“Lành thay! Lành thay! Ngũ Kết, giọng ca của
ngươi cùng với tiếng đàn hòa điệu; tiếng đàn và giọng ca hòa
điệu. Giọng ca không đi ngoài tiếng đàn; tiếng đàn không đi
ngoài giọng ca. Này Ngũ Kết, ngươi nhớ lại ngày xưa, ngươi có
ca tụng bài kệ liên quan đến tình yêu, liên quan đến rồng,
liên quan đến Sa-môn, liên quan đến La-hán này chăng?”
Ngũ Kết thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhân[15]
tự biết cho. Bạch Đại Tiên Nhân, ngày xưa, khi Thế Tôn mới
chứng đắc giác đạo, ở tại Uất-bệ-la[16],
bên bờ sông Ni-liên-thiền[17],
dưới gốc cây A-xà-hòa-la-ni-câu-loại[18].
Bấy giờ con gái của Nhạc vương Đam-phù-lâu[19],
tên là Hiền Nguyệt Sắc[20]
và có một thiên thần tên là Kết, con trai của Ma-đâu-lệ, người
đánh xe[21],
yêu người con gái kia.
“Bạch Đại Tiên Nhân, vị ấy trong lúc đang yêu
người con gái ấy, con cũng yêu người con gái ấy. Nhưng, bạch
Đại Tiên Nhân, khi con yêu người con gái ấy mà cuối cùng không
được. Bấy giờ con đứng sau người con gái ấy mà ngâm bài kệ
liên quan đến tình yêu, liên quan đến rồng, liên quan đến
Sa-môn, liên quan đến La-hán này.
“Bạch Đại Tiên Nhân, khi con ngâm bài kệ này,
người con gái ấy quay nhìn lại, hân hoan cười nụ và nói với
con rằng: ‘Ngũ Kết, tôi chưa được thấy Phật Thế Tôn kia, nhưng
tôi nghe từ các vị trời Tam thập tam nói rằng: ‘Đức Thế Tôn
kia là Như Lai, là Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Thành Tựu Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo
Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu’. Này Ngũ Kết, nếu
anh đã từng nhiều lần ca ngợi Đức Thế Tôn, vậy anh có thể cùng
với tôi đồng thờ kính Đấng Đại Tiên Nhân’. Con chỉ gặp gỡ nàng
được một lần duy nhất, từ đó về sau không còn thấy lại.”
Bấy giờ Thiên Vương Thích nghĩ rằng: “Ngũ Kết
nhạc tử đã làm cho Thế Tôn ra khỏi thiền định, thông báo ta
với Đức Thiện Thệ.” Rồi thì, Thiên Vương Thích nói:
“Ngũ Kết, ngươi hãy đến nơi ấy, thay mặt ta
đảnh lễ sát chân Phật mà thăm hỏi Đức Thế Tôn rằng: ‘Thánh thể
có khỏe mạnh, an ổn khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái,
khí lực bình thường chăng? Bạch Đại Tiên Nhân, Thiên Vương
Thích và chư Thiên ở Tam thập tam muốn đến yết kiến Thế Tôn’.”
Ngũ kết thưa:
“Xin vâng.”
Khi đó, Ngũ Kết bỏ đàn lưu ly xuống, chắp tay
hướng về Phật, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn! Kính Đại Tiên Nhân! Thiên Vương
Thích xin cúi đầu dưới chân Phật, thăm hỏi Thế Tôn rằng:
‘Thánh thể có khỏe mạnh, an ổn khoái lạc, không bệnh, đi đứng
thoải mái, khí lực bình thường chăng? Bạch Đại Tiên Nhân,
Thiên Vương Thích và chư Thiên ở Tam thập tam muốn đến yết
kiến Thế Tôn’.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Này Ngũ Kết, mong cho Thiên Vương Thích được
an ổn khoái lạc. Chư Thiên, loài người, A-tu-la, Kiền-thát-bà,
La-sát và tất cả các loài chúng sanh khác đều được an ổn,
khoái lạc. Này Ngũ Kết, Thiên Vương Thích có muốn đến yết kiến
Ta, vậy xin cứ tùy ý.”
Ngũ Kết nghe Phật dạy xong, khéo léo thọ trì,
đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra, trở về đến
chỗ Thiên Vương Thích thưa rằng:
“Tâu Thiên vương, tôi đã bạch với Thế Tôn. Thế
Tôn nay đang đợi Thiên vương. Mong Thiên vương nên tự biết
thời.”
Bấy giờ, Thiên Vương Thích cùng chư Thiên Tam
thập tam và Ngũ kết nhạc tử đi đến chỗ Phật. Khi ấy, Thiên
Vương Thích cúi đầu sát chân Phật, ba lần tự xưng danh tánh
rằng:
“Bạch Đại Tiên Nhân! Con là Thiên Vương Thích!
Con là Thiên Vương Thích!”
Đức Thế Tôn bảo:
“Quả thật vậy! Quả thật vậy. Này Câu-dực[22],
ngươi chính là Thiên Vương Thích.”
Thiên Vương Thích ba lần tự xưng danh tánh,
đảnh lễ chân Phật rồi đứng sang một bên. Khi ấy, Thiên Vương
Thích thưa rằng:
“Bạch Đại Tiên Nhân, con nên ngồi cách Thế Tôn
xa hay gần?”Đức Thế Tôn dạy:
“Ngươi hãy ngồi gần ta. Vì sao? Vì người có
hàng chư Thiên quyến thuộc đông vậy.”
Rồi Thiên Vương Thích đảnh lễ chân Phật và ngồi
sang một bên. Chư Thiên Tam thập tam và Ngũ Kết nhạc tử cũng
đảnh lễ chân Phật rồi ngồi sang một bên. Lúc ấy động
Nhân-đà-la bỗng nhiên rộng lớn. Vì sao? Vì do oai thần của
Phật và oai đức của chư Thiên vậy.
Thiên Vương Thích sau khi ngồi xuống, thưa
rằng:
“Bạch Đại Tiên Nhân, đã từ lâu con muốn đến yết
kiến Thế Tôn, muốn thưa hỏi về giáo pháp. Bạch Đại Tiên Nhân,
xưa kia, một thời Đức Thế Tôn du hóa tại nước Xá-vệ, trong một
vách đá[23].
Bạch Đại Tiên Nhân, lúc đó con có việc riêng, cùng với chư
Thiên Tam thập tam đi xe ngàn voi[24]
đến nhà của đại vương Bệ-Sa-môn[25];
Bệ-sa-môn đại vương gia có người thiếp tên là Bàn-xà-na[26].
“Lúc bấy giờ Thế Tôn đang nhập định, im lặng
tịch nhiên. Người thiếp kia chắp tay đảnh lễ dưới chân Đức Thế
Tôn. Bạch Đại Tiên Nhân, con nói với Bàn-xà-na rằng: ‘Này hiền
muội, nay không phải lúc ta đến yết kiến Thế Tôn. Thế Tôn đang
nhập định. Nếu khi nào Thế Tôn xuất định, hiền muội hãy thay
mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và hỏi thăm Thánh thể của Thế Tôn có
khỏe mạnh, an ổn, khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái,
khí lực bình thường không nói như vầy: ‘Bạch Đại Tiên Nhân,
Thiên Vương Thích đảnh lễ chân Phật và thăm hỏi rằng: ‘Thế Tôn
có khỏe mạnh, an ổn, khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái,
khí lực bình thường không?’ Bạch Đại Tiên Nhân, cô em ấy có
thay mặt con đảnh lễ chân Phật và thăm hỏi Thế Tôn, Thế Tôn có
nhớ chăng?”
Đức Thế Tôn bảo:
“Này Câu-dực, cô em ấy có thay mặt ngươi đảnh
lễ và cũng nói lại ý ngươi muốn thăm hỏi. Ta có nhớ việc ấy.
Này Câu-dực, khi người đi, Ta nghe tiếng xe lăn mà xuất định.”
“Bạch Thế Tôn, ngày xưa con có nghe rằng, khi
Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự,
Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu xuất hiện ở đời thì thiên chúng
được hưng thịnh mà A-tu-la bị giảm thiểu.
“Bạch Đại Tiên Nhân, chính mắt con trông thấy
Tỳ-kheo đệ tử Thế Tôn theo Phật tu hành phạm hạnh, xả dục, ly
dục. Khi thân hoại mạng chung được đến cõi an lành, sanh lên
trời.
“Bạch Đại Tiên Nhân, Thích nữ Cù-tỳ[27]
là đệ tử của Thế Tôn cũng theo Thế Tôn tu tập phạm hạnh, ghê
tởm thân nữ, ái lạc thân nam, chuyển thân nữ thành thân nam,
xả dục, ly dục, khi thân hoại mạng chung được sanh đến cõi Tam
thập tam thiên làm con của con. Nàng đã thọ sanh rồi, chư
Thiên thảy đều biết, Cù-bà thiên tử[28],
có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai
thần.
“Bạch Đại Tiên Nhân, con lại thấy có ba vị
Tỳ-kheo đệ tử Thế Tôn cũng theo Thế Tôn tu tập phạm hạnh,
nhưng không xả ly dục, khi thân hoại mạng chung chúng sanh vào
trong Kỹ nhạc cung[29]
thấp kém. Họ đã thọ sanh rồi, ngày ngày đến Tam thập tam thiên
cùng chư Thiên hầu hạ Cù-bà thiên tử. Thiên tử thấy chúng liền
nói bài kệ:
- Pháp nhãn
Ưu-bà-di[30],
- Tôi vốn tên
Cù-tì,
- Phụng kính
Phật và pháp,
- Tịnh ý thờ
Tăng-già.
- Tôi đã nhờ ân
Phật,
- Thích tử
phước đức lớn,
- Diệu sanh Tam
thập tam,
- Thiên tử, mọi
người biết.
- Biết người
vốn Tỳ-kheo,
- Sanh làm thần
kỹ nhạc;
- Chắp tay đứng
trước mặt
- Cù-bà nói kệ
cho.
- Vốn con Đức
Cù-đàm;
- Khi tôi ở
nhân gian,
- Nhà ta các
ngươi đến;
- Ẩm thực tôi
cúng dường.
- Ngươi vốn
cùng bậc Thánh
- Hành vô
thượng phạm hạnh;
- Nay lại để
người sai,
- Thường nhật
kính phụng trời.
- Xưa tôi hầu
hạ người,
- Cùng nghe
Thánh diệu pháp.
- Được tín,
thành tựu giới;
- Khéo sanh cõi
trời này.
- Người vốn
được thờ phụng,
- Hành vô
thượng phạm hạnh.
- Nay lại để
người sai
- Thường nhật
kính phụng trời.
- Mặt mày người
là gì?
- Phật pháp đã
thọ trì,
- Quay lưng,
không hướng Pháp,
- Pháp nội tâm
chứng tri[31],
- Thánh nhãn đã
dạy rõ[32].
- Tôi xưa hầu
các vị;
- Nay nhạc thần
thấp kém;
- Tự theo phi
pháp hành,
- Tự sanh chỗ
phi pháp.
- Ta sống đời
tại gia;
- Nay xem thắng
đức ta,
- Chuyển nữ
thành thiên tử,
- Thọ ngũ dục
tự do.
- Con Cù-đàm bị
mắng,
- Buồn nản,
khen Cù-đàm[33]:
- Ta[34]
nay hãy tiến hành;
- Thiên tử nói
thật đúng.
- Hai trong số
cần hành,
- Nhớ pháp luật
Cù-đàm,
- Biết dục là
tai họa,
- Bèn xả ly dục
tham.
- Chúng bị dục
trói chặt,
- Tức xả ly
được liền.
- Như voi bứt
dây xích,
- Vượt Tam thập
tam thiên.
- Nhân-đà-la,
Thiên, Phạm,
- Tất cả đều
đến nhóm.
- Họ liền vượt
chỗ ngồi,
- Hùng mãnh xả
trần dục.
- Đế Thích thấy
chúng phiền[35];
- Thắng Thiên[36],
trời trên trời.
- Chúng vốn
sanh hạ tiện,
- Nay vượt Tam
tam thiên.
- Ưu phiền, rồi
tấm tắc[37].
- Cù-bà nói sau
hết:
- Loài người có
Đại Giác,
- Đấng Mâu-ni
thắng dục[38].
- Con Ngài do
lãng quên,
- Bị quở trách,
lại được.
- Một trong ba
vị kia
- Sanh trong
thần kỹ nhạc.
- Hai vị chánh
đạo thành
- Tại trời, vui
định căn.
- Ngươi nói
pháp như vầy;
- Đệ tử không
mê hoặc,
- Vượt lậu,
đoạn tà nghi,
- Lễ Phật,
thắng phục căn[39].
- Bởi vì tỏ các
pháp,
- Hai vị được
tiến thăng.
- Từ chỗ tiến
thăng ấy
- Sanh lên trời
Phạm thiên.
- Chúng con
biết pháp ấy
- Nên đến đây,
Đại Tiên!”
Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Vị Quỷ[40]
này không bao giờ dua nịnh, dối trá, không huyễn hoặc, chất
trực. Nếu có hỏi tất là muốn biết, chứ không phải muốn xúc
nhiễu. Những điều vị này muốn hỏi cũng vậy. Ta hãy nói
A-tỳ-đàm thậm thâm.”
Đức Thế Tôn biết như thế rồi, Ngài liền nói bài
kệ cho Thiên Vương Thích:
- Vì an lạc đời
này,
- Và an lạc đời
sau,
- Câu-dực tùy ý
hỏi,
- Theo những
điều sở thích.
- Điều này hay
điều kia,
- Ta quyết đoán
hết thảy.
- Thế Tôn đã
nghe cho
- Nhật Thiên
cầu đạo nghĩa,
- Tại nước
Ma-kiệt-đà
- Hiền Bà-sa-bà
hỏi[41].
Bấy giờ Thiên Vương Thích thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, các loại trời, người, A-tu-la,
Kiền-đạt-hòa, La-sát và các chủng loại khác[42],
mỗi mỗi có bao nhiêu kết sử[43]?”
Đức Thế Tôn nghe xong, đáp:
“Này Câu-dực, các loại trời, người, A-tu-la,
Kiền đạt hòa, La-sát và các chủng loại khác, mỗi mỗi đều có
hai kết là bỏn sẻn và ganh tị[44].
Mỗi chủng loại ấy đều nghĩ rằng: ‘Mong sao ta không gậy[45],
không kết, không oán, không nhuế, không tranh, không đấu,
không khổ, sống trong an lạc[46].’
Chúng tuy nghĩ như vậy, nhưng vẫn có gậy, có kết, có oán, có
nhuế, có tranh, có đấu, có khổ mà không sống trong sự an lạc.”
Thiên Vương Thích nghe thế, thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như
vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, các
loài trời, người, A-tu-la, Kiền đạt hòa, La-sát và các chủng
loại khác, mỗi mỗi đều có hai kiết sử. Chúng nghĩ rằng: ‘Mong
sao ta không gậy, không kết, không oán, không nhuế, không
tranh, không đấu, không khổ, mà sống trong sự an lạc’. Chúng
tuy nghĩ như vậy, nhưng vẫn có gậy, có kết, có oán, có nhuế,
có tranh, có đấu, có khổ mà không sống trong sự an lạc. Thật
sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân. Đúng như pháp mà Phật đã
nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự,
do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
nói, hoan hỷ phụng hành; rồi lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, bỏn sẻn, ganh tị do nhân
gì duyên gì, từ đâu sanh ra, do đâu mà có? Lại do nhân gì,
duyên gì mà không có bỏn sẻn và ganh tị?”
Thế Tôn đáp rằng:
“Này Câu-dực, bỏn sẻn và ganh tị nhân nơi yêu
và không yêu[47],
duyên nơi yêu và không yêu; từ nơi yêu và không yêu sanh ra;
do yêu và không yêu mà có. Nếu không có yêu, và không yêu thì
không có bỏn sẻn và ganh tị vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như
vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân. Bỏn
sẻn và ganh tị nhân nơi yêu và không yêu, duyên nơi yêu và
không yêu; từ nơi yêu và không yêu sanh ra; do yêu và không
yêu mà có. Nếu không có yêu, và không yêu thì không có bỏn sẻn
và ganh tị. Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy,
bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân. Đúng như
pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc,
không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
nói, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, yêu và không yêu là do
nhân gì, duyên gì, từ đâu phát sanh, do đâu mà có? Lại do nhân
nào mà không có yêu và không yêu?”
Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Này Câu-dực, yêu và không yêu là nhân nơi dục
và duyên nơi dục mà phát sanh, do dục mà có[48].
Nếu vô dục thì không có yêu và không yêu vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như
vậy, bạch Thiện Thệ! Thậït sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Yêu
và không yêu là nhân nơi dục và duyên nơi dục mà phát sanh, do
dục mà có. Nếu vô dục thì không có yêu và không yêu vậy. Thật
sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp mà Phật đã
nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự,
do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, dục là do nhân gì, duyên
gì, từ đâu mà sanh, do đâu mà có; do nhân nào không có dục?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, dục là do nhân niệm[49]
và duyên nơi niệm, từ nơi niệm mà phát sanh; do niệm mà có;
nếu không có suy niệm thì không có dục.”
Thiên Vương Thích nghe thế thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như
vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, dục
là do nhân niệm và duyên nơi niệm, từ nơi niệm mà phát sanh;
do niệm mà có; nếu không có suy niệm thì không có dục. Thật sự
như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật
sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp mà Phật đã nói,
con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự, do
nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, niệm là do nhân gì, duyên
gì, từ đâu mà sanh, do đâu mà có. Lại do nhân nào không có suy
niệm?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, niệm là nhân nơi tư và duyên nơi
tư, từ nơi tư mà phát sanh, do tư mà có[50].
Nếu không có tư thì không có niệm.
“Do niệm có dục, do dục có yêu và không yêu. Do
yêu và không yêu có bỏn sẻn và ganh tị. Do bỏn sẻn và ganh tị
mà sanh ra dao, gậy, đấu tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá,
nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm sanh ra vô lượng pháp ác bất
thiện. Như vậy, toàn khối lớn khổ đau này phát sanh.
“Nếu không có tư thì không có niệm. Nếu không
có niệm thì không có dục. Nếu không có dục thì không có yêu và
không yêu. Nếu không có yêu và không yêu thì không có bỏn sẻn
và ganh tị. Nếu không có bỏn sẻn và ganh tị thì không có dao
gậy, đấu tranh, thì nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói
hai lưỡi, trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện.
Như vậy, toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt”.
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa rằng:
“Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu, bạch
Thiện Thệ! Con đã hiểu, bạch Đại Tiên Nhân. Niệm là nhân nơi
tư và duyên nơi tư, từ nơi tư mà phát sanh, do tư mà có. Nếu
không có tư thì không có niệm.
“Do niệm có dục, do dục có yêu và không yêu. Do
yêu và không yêu có bỏn sẻn và ganh tị. Do bỏn sẻn và ganh tị
mà sanh ra dao, gậy, đấu tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá,
nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm sanh ra vô lượng pháp ác bất
thiện. Như vậy, toàn khối lớn khổ đau này phát sanh.
“Nếu không có tư thì không có niệm. Nếu không
có niệm thì không có dục. Nếu không có dục thì không có yêu và
không yêu. Nếu không có yêu và không yêu thì không có bỏn sẻn
và ganh tị. Nếu không có bỏn sẻn và ganh tị thì không có dao
gậy, đấu tranh, thì nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói
hai lưỡi, trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện.
Như vậy, toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt.
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như
vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng
như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ
hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe xong những điều
Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, thế nào là con đường tiêu
diệt hý luận[51].
Tỳ-kheo thực hành như thế nào để hướng đến con đường tiêu diệt
hý luận?”
Đức Thế Tôn đáp rằng:
“Này Câu-dực, con đường tiêu diệt hý luận là
Thánh đạo tám chi. Đó là, chánh kiến, chánh tư duy, cho đến
chánh định. Này Câu-dực, đó là con đường tiêu diệt hý luận.
Tỳ-kheo thực hành như vậy để hướng đến con đường tiêu diệt hý
luận.”
Thiên Vương Thích nghe dạy xong, thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như
vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, con
đường tiêu diệt hý luận là Thánh đạo tám chi. Đó là, chánh
kiến, chánh tư duy, cho đến chánh định. Này Câu-dực, đó là con
đường tiêu diệt hý luận. Tỳ-kheo thực hành như vậy để hướng
đến con đường tiêu diệt hý luận. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!
Đúng như vậy, bạch Thiện thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên
Nhân! Đúng như pháp mà Đức Phật đã dạy, con đã rõ. Con đã đoạn
trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy”.
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, một Tỳ-kheo hướng đến con
đường tiêu diệt hý luận phải đoạn bao nhiêu pháp và hành bao
nhiêu pháp?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu
diệt hý luận phải đoạn ba pháp và tu hành ba pháp. Thế nào là
ba? Một là niệm, hai là ngôn, ba là cầu[52].
“Này Câu-dực, niệm ấy Ta nói có hai loại, nên
hành và không nên hành. Nếu niệm mà không nên hành thì Ta liền
đoạn trừ. Nếu niệm nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có
niệm, có trí để thành tựu niệm kia vậy. Ngôn cũng như thế.
“Này Câu-dực, cầu ấy Ta nói cũng có hai loại,
nên hành và không nên hành. Nếu cầu mà không nên hành thì Ta
liền đoạn. Nếu cầu mà nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành,
có niệm, có trí, để thành tựu cầu kia vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như
vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Tỳ-kheo không hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, đoạn ba
pháp, tu hành ba pháp. Thế nào là ba? Một là niệm, hai là
ngôn, ba là cầu.
Đại Tiên Nhân đã nói, niệm có hai loại nên hành
và không nên hành. Nếu niệm tăng trưởng pháp ác bất thiện và
giảm tổn thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn trừ. Nếu niệm
giảm tổn pháp ác bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại
Tiên Nhân biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu
niệm kia vậy. Ngôn cũng như vậy. Đại Tiên Nhân đã nói cầu cũng
có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu cầu tăng trưởng
pháp ác bất thiện và tổn giảm thiện pháp thì Đại Tiên Nhân
liền đoạn trừ. Nếu cầu mà giảm tổn pháp ác bất thiện và tăng
trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành, có
niệm, có trí để thành tựu cầu kia vậy.
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch
Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp
Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn
do dự, do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, Tỳ-kheo hướng đến con
đường tiêu diệt hý luận, có bao nhiêu pháp; để thủ hộ Tùng
giải thoát[53],
hành bao nhiêu pháp?
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu
diệt hý luận có sáu pháp; để thủ hộ tùng giải thoát hành sáu
pháp. Sáu pháp ấy là gì? Đó là, mắt thấy sắc, tai nghe thanh,
mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý biết pháp.
“Này Câu-dực, mắt thấy sắc ấy, Ta nói có hai
loại, nên hành và không nên hành. Nếu mắt thấy sắc không nên
hành thì Ta liền đoạn trừ. Nếu mắt sắc nên hành thì Ta biết
lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu mắt vậy.
“Cũng như thế, đối với tai nghe tiếng, mũi ngửi
hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc và ý biết pháp ấy, Ta nói
cũng có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu ý biết pháp
không nên hành thì Ta liền đoạn trừ. nếu ý biết pháp nên hành
thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu ý
vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa:
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch
Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Tỳ-kheo hướng đến
con đường tiêu diệt hý luận có sáu pháp; để thủ hộ Tùng giải
thoát hành sáu pháp. Sáu pháp ấy là gì? Mắt thấy sắc, tai nghe
tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý biết
pháp. Đại Tiên Nhân đã nói, mắt thấy sắc có hai loại, nên hành
và không nên hành. Nếu mắt thấy mà tăng trưởng pháp ác bất
thiện và làm tổn giảm thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn
trừ. Nếu mắt thấy sắc làm tổn giảm pháp ác bất thiện và làm
tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành
vậy. Có niệm, có trí để thành tựu mắt vậy. Cũng như thế, đối
với tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết
xúc, ý biết pháp cũng có hai loại, nên hành và không nên hành.
Nếu ý biết pháp làm tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm tổn
thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn trừ. Nếu ý biết pháp
làm tổn giảm pháp ác bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì
Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành
tựu ý vậy. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch
Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp
Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không
còn do dự, do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, vị Tỳ-kheo hướng đến con
đường tiêu diệt hý luận, khi thân mạng tồn tại trong một
khoảnh khắc, phải đoạn bao nhiêu pháp và tu hành bao nhiêu
pháp?”
Đức Thế Tôn dạy:
“Này Câu-dực, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu
diệt hý luận, khi thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc, lại
cũng phải đoạn ba pháp và tu hành ba pháp. Ba pháp ấy là gì?
Một là hỷ, hai là ưu và ba là xả[54].
“Này Câu-dực, hỷ ấy Ta nói có hai loại, nên
hành và không nên hành. Nếu hỷ mà không nên hành thì Ta liền
đoạn trừ. Nếu hỷ nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có
niệm, có trí để thành tựu hỷ vậy. Ưu cũng như thế.
“Này Câu-dực, xả ấy Ta nói cũng có hai loại,
nên hành và không nên hành. Nếu xả mà không nên hành thì Ta
liền đoạn trừ. nếu xả nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành,
có niệm, có trí để thành tựu xả vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa:
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch
Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Tỳ-kheo hướng đến
con đường tiêu diệt hý luận, khi thân mạng tồn tại trong một
khoảnh khắc phải đoạn trừ ba pháp và thực hành ba pháp. Ba
pháp ấy là gì? Một là hỷ, hai là ưu, ba là xả. Đại Tiên Nhân
đã nói hỷ có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu hỷ làm
tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì liền
đoạn trừ. Nếu hỷ làm giảm tổn pháp ác bất thiện và tăng trưởng
thiện pháp thì biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành
tựu hỷ vậy. Ưu cũng như thế. Đại Tiên Nhân đã nói xả cũng có
hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu xả làm tăng trưởng
pháp ác bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì liền đoạn trừ.
Nếu xả làm tổn giảm pháp ác bất thiện và trăng trưởng thiện
pháp thì biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu
xả vậy. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện
Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp Phật đã
nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi trừ hoặc, không còn do dự,
do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, tất cả Sa-môn, Phạm chí
đều đồng một thuyết, đồng một mong cầu, đồng một sở thích,
đồng một an lạc, đồng một ý hướng chăng?[55]“
Đức Phật dạy:
“Này Câu-dực, tất cả Sa-môn, Phạm chí không
đồng một thuyết, không đồng một mong cầu, không đồng một sở
thích, không đồng một an lạc, không đồng một ý hướng.”
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, tất cả Sa-môn, Phạm chí vì
lý do gì mà không đồng một thuyết, không đồng một mong cầu,
không đồng một sở thích, không đồng một an lạc, không đồng một
ý hướng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, thế giới này có nhiều chủng loại
giới, có vô lượng giới[56].
Vị ấy tùy theo một giới được biết đến, rồi nhân giới đó tùy
khả năng của mình mà nói một chiều rằng ‘Đây là chân thật,
ngoài ra đều hư dối’. Này Câu-dực, cho nên tất cả Sa-môn, Phạm
chí không đồng một thuyết, không đồng một mong cầu, không đồng
một sở thích, không đồng một an lạc, không đồng một ý hướng
vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa:
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch
Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Thế giới này có
nhiều chủng loại giới, có vô lượng giới. Vị ấy tùy theo một
giới được biết đến, rồi ở nơi giới đó tùy khả năng của mình mà
nói một chiều rằng ‘Đây là chân thật, ngoài ra đều hư vọng’.
Bạch Đại Tiên Nhân, vì thế mà tất cả Sa-môn, Phạm chí không
đồng một thuyết, không đồng một mong cầu, không đồng một sở
thích, không đồng một an lạc, không đồng một ý hướng vậy. Đúng
như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như
vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp Phật đã nói, con đã
biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe
những điều Phật dạy”.
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
nói, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, tất cả Sa-môn, Phạm chí
đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh,
thành tựu cứu cánh phạm hạnh chăng[57]?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, không hẳn tất cả Sa-môn, Phạm chí
đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh,
thành tựu cứu cánh phạm hạnh.”
Thiên Vương Thích, thưa:
“Bạch Đại Tiên Nhân, vì lý do gì mà không hẳn
tất cả Sa-môn, Phạm chí đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh phạm
bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm hạnh?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với
vô thượng ái tận, không toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát[58],
kẻ ấy không đạt đến cứu cánh, không cứu cánh bạch tịnh, không
cứu cánh phạm hạnh, không thành tựu cứu cánh phạm hạnh.
“Này Câu-dực, nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với
vô thượng ái tận toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát, kẻ ấy đạt
đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành
tựu cứu cánh phạm hạnh.”
Thiên Vương Thích, thưa:
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch
Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, nếu có Sa-môn,
Phạm chí đối với vô thượng ái tận không hoàn toàn chân chánh
tâm giải thoát, kẻ ấy không đạt đến cứu cánh, không cứu cánh
bạch tịnh, không cứu cánh phạm hạnh, không thành tựu cứu cánh
phạm hạnh.
‘Bạch Đại Tiên Nhân, nếu có Sa-môn, Phạm chí
đối với vô thượng ái tận toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát,
kẻ ấy đạt đến cứu cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm
hạnh, thành tựu cứu cánh phạm hạnh. Đúng như vậy, bạch Thế
Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên
Nhân! Đúng như pháp Phật đã nói, con đã biết, con đã đoạn
nghi, trừ hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật
nói, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại nói:
“Bạch Đại Tiên Nhân, con lâu nay bị gai nhọn
nghi hoặc, ngày nay được Thế Tôn nhổ ra. Vì sao? Vì Như Lai là
Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác vậy.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Câu-dực, ngươi nhớ lại ngày xưa ngươi đã
từng hỏi các Sa-môn, Phạm chí việc như thế chăng?”
Thiên Vương Thích đáp:
“Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhân tự biết cho.
Bạch Đại Tiên Nhân, chư Thiên Tam thập tam tập họp tại Pháp
đường, đều ôm lòng sầu não, thường than thở rằng ‘Chúng ta nếu
gặp được Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, quyết
sẽ đến yết kiến’. Bạch Đại Tiên Nhân, nhưng chúng con không
gặp được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, bèn thụ
hưởng đầy đủ công đức của ngũ dục[59].
“Bạch Đại Tiên Nhân, chúng con phóng dật. Sau
khi sống phóng dật, vị thiên tử có đại oai đức, ngay nơi chỗ
cực diệu mà mạng chung. Bạch Đại Tiên Nhân, khi con thấy vị
thiên tử đại oai đức ngay nơi chỗ cực diệu mà mạng chung bèn
chán nản hết sức, lông tóc đều dựng ngược ‘Mong ta không ở nơi
này mà mạng chung nhanh chóng’.
“Bạch Đại Tiên Nhân, con do sự chán này, sự ưu
não này, nên thấy Sa-môn, Phạm chí nào sống nơi rừng vắng,
trong rừng sâu, dưới gốc cây, thích ở trên sườn núi cao, vắng
bặt không có tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có
bóng người, tùy thuận tĩnh tọa; sau khi thấy vị ấy ưa thích
nơi xa vắng, tĩnh tọa, sống an ổn khoái lạc, con cho rằng đây
là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, liền đến yết
kiến.
“Vị ấy không biết con, nên hỏi rằng: ‘Ông là
ai?’
“Lúc đó con đáp rằng ‘Bạch Đại Tiên Nhân, con
là Thiên Vương Thích. Bạch Đại Tiên Nhân, con là Thiên Vương
Thích’.
“Vị ấy lại hỏi ‘Ta từng thấy Thích và cũng thấy
chủng tánh Thích. Vì lý do gì gọi là Thích? Vì lý do gì gọi là
chủng tánh Thích?’
“Con liền đáp rằng ‘Bạch Đại Tiên Nhân, nếu có
ai đến hỏi con việc như vậy, con liền tùy khả năng, tùy sức[60]
mà trả lời, cho nên được gọi là Thích’.
“Vị ấy lại hỏi ‘Chúng ta nếu tùy theo việc mà
hỏi Thích, Thích cũng tùy việc mà đáp lại ta’.
“Vị ấy hỏi việc con, nhưng con không hỏi việc
vị ấy. Vị ấy quy mạng con, nhưng con không quy mạng vị ấy.
“Bạch Đại Tiên Nhân, từ nơi Sa-môn Phạm chí
kia, hoàn toàn không được oai nghi giáo pháp, huống nữa lại
được hỏi như vậy sao?”
Lúc ấy, Thiên Vương Thích nói bài tụng:
- Thích[61]
đi qua, đi qua;
- Thích hay nói
như thế.
- Ý tưởng niệm
lìa xa;
- Trừ nghi, các
do dự;
- Từ lâu đi
trong đời,
- Tìm cầu Đức
Như Lai.
- Thấy Sa-môn,
Phạm chí
- Tĩnh tọa nơi
xa xôi
- Cho là Chánh
Đẳng Giác;
- Đến phụng
cúng, lạy thờ:
- ‘Làm sao được
thăng tấn’.
- Như vậy con
hỏi Ngài
- Đã hỏi, không
được đáp,
- Thánh đạo và
đạo tích.
- Thế Tôn nay
vì con,
- Nếu ý có sở
nghi,
- Sở niệm và sở
tư,
- Và sở hành
của ý;
- Biết tâm ẩn
và hiện,
- Thánh Nhãn
nói cho hay.
- Tôn Phật là
Đạo Sư,
- Tôn Vô trước
Mâu-ni,
- Tôn Bậc Đoạn
kết sử,
- Độ mình và độ
người.
- Đệ nhất trong
hàng giác ngộ;
- Tối thượng
ngự trong hàng Điều ngự;
- Tối diệu tịch
trong hàng Tịch tĩnh;
- Đấng Đại
Tiên, độ mình, độ người.
- Nên con lễ
Đại Hùng;
- Cúi lạy Tối
Thượng Nhân;
- Đoạn tuyệt
gai ái dục;
- Kính lạy Đấng
Nhật Thân.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại hỏi rằng:
“Này Câu-dực, ông có nhớ ngày xưa, được xả ly
như vậy, được hoan hỷ[62]
như vậy, nghĩa là do nơi Ta mà đạy được pháp hỷ chăng?”Thiên
Vương Thích thưa:
“Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhân tự biết cho.
“Bạch Đại Tiên Nhân, một thời xưa, chư Thiên và
A-tu-la chiến đấu với nhau. Bạch Đại Tiên Nhân, khi chư Thiên
và A-tu-la chiến đấu với nhau, con nghĩ rằng ‘Mong chư Thiên
thắng, phá vỡ A-tu-la. Thực phẩm của chư Thiên và thực phẩm
của A-tu-la hãy để tất cả cho Tam thập tam thiên thọ thực’.
“Bạch Đại Tiên Nhân, khi chư Thiên đánh nhau
với A-tu-la, chư Thiên đắc thắng, phá vỡ chúng A-tu-la. Thực
phẩm của chư Thiên và thực phẩm của A-tu-la, tất cả đều được
chư Thiên Tam thập tam thọ thực.
“Bạch Đại Tiên Nhân, bây giờ có ly, có hỷ,
nhưng xen lẫn dao gậy, kết oán, đấu tranh, thù nghịch, không
được thần thông, không được giác đạo, không được Niết-bàn.
“Bạch Đại Tiên Nhân, ngày nay được ly, được hỷ,
không xen lẫn dao gậy, kết oán, đấu tranh, thù nghịch, được
thần thông, được giác đạo và được Niết-bàn.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Câu-dực, do đâu ngươi được ly được hỷ? Do
nơi Ta mà được pháp hỷ chăng?
“Thiên Vương Thích đáp rằng:
“Bạch Đại Tiên Nhân, con nghĩ rằng ‘Ta mạng
chung ở đây, sanh nơi nhân gian. Ở đó nếu có dòng họ rất giàu
sang, tiền của vô số, sản nghiệp, súc mục không thể tính được.
Phong hô thực ấp các thứ đầy đủ, hoặc là chủng tộc Sát-lợi
trưởng giả, chủng tộc Phạm chí trưởng giả và các chủng tộc
khác, rất là giàu sang, của cải vô số, sản nghiệp, súc mục
không thể tính được. Phong hô thực ấp các thứ đầy đủ. Sau khi
sanh vào chủng tộc như thế, thành tựu các căn, có tín tâm đối
với pháp luật mà Đức Như Lai giảng thuyết. Sau khi có tín tâm,
liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình,
sống không gia đình mà học đạo và học trí. Sau khi học trí,
nếu thành đạt trí, liền chứng đắc cứu cánh trí, đạt đến biên
tế cứu cánh. Nếu sau khi học trí mà không được cứu cánh học
trí và sau khi học trí thì có chư Thiên nào đó có đại phước
hựu, có sắc tượng uy nguy, chói sáng rực rỡ, rất có oai lực,
an ổn khoái lạc, sống mãi trong cung, sanh nơi tối thượng. Ta
sanh trong đó”.
Bấy giờ Thiên Vương Thích nói bài tụng:
- Xả ly thân
Thiên thần,
- Sanh xuống
nơi nhân gian;
- Thác thai
không ngu muội,
- Tùy sở thích
hân hoan.
- Thành thân đã
hoàn mãn,
- Chất trực, tu
Thánh đạo,
- Hành phạm
hạnh trọn đủ
- Sống vui đời
xin ăn.
“Và sau khi học trí, nếu được trí, liền chứng
đắc cứu cánh trí, đạt đến biên tế cứu cánh. Nếu học trí và sau
khi học trí rồi mà được trí nhưng không chứng đắc cứu cánh
trí, đã thành vị trời tối thượng diệu, chư Thiên đều nghe
danh, đó là Sắc cứu cánh thiên, sẽ sanh vào đó. Bạch Đại Tiên
Nhân, con mong sẽ chứng đắc A-na-hàm. Bạch Đại Tiên Nhân, con
nay đã chứng đắc Tu-đà-hoàn.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Câu-dực, ngươi do đâu mà được sai giáng[63]
rất tốt đẹp, cực cao, cực rộng này, để có thể tự nói là đã
chứng đắc Tu-đà-hoàn?”
Bấy giờ Thiên Vương Thích dùng bài kệ đáp:
- Không còn tôn
ai khác
- Ngoài cảnh
giới Thế Tôn.
- Chứng Vô
thượng sai giáng,
- Cõi này thật
chưa từng.
- Đại Tiên, con
ngồi đây,
- Ngay với thân
trời này
- Con liền được
tăng thọ
- Chính mắt
thấy như vầy.
Khi nói pháp này, Thiên Vương Thích xa lìa trần
cấu, pháp nhãn của các pháp phát sanh. Tám vạn chư Thiên cũng
được xa lìa trần cấu, pháp nhãn của các pháp phát sanh. Khi ấy
Thiên Vương Thích thấy pháp, đắc pháp, giác ngộ pháp bạch
tịnh, đoạn trừ nghi hoặc, không còn tôn ai khác, không còn do
ai khác, không còn do dự, đã an trụ trên quả chứng, đối với
giáo pháp của Phật mà chứng đắc vô sở úy, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, con nay xin tự quy Phật, Pháp và
Chúng Tỳ-kheo. Ngưỡng mong Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc. Kể
từ hôm nay cho đến trọn đời, con tự quy y cho đến khi mạng
chung.”
Bấy giờ Thiên Vương Thích ngợi khen Ngũ kết
nhạc tử rằng:
“Lành thay! Lành thay! Ngũ Kết, ngươi đã giúp
ích cho ta rất nhiều. Lý do vì sao? Do ngươi mà Phật xuất
định, bởi ngươi trước hết khiến Thế Tôn từ định ra, khiến ta
sau đó mới yết kiến được Thế Tôn. Này Ngũ Kết! Sau khi từ đây
trở về, ta đem Hiền Nguyệt Sắc, con gái của Nhạc vương
Đam-phù-lâu gã cho ngươi và đem bổn quốc của Nhạc vương ấy
trao cho ngươi, phong tặng ngươi làm vua kỹ nhạc[64].”
Bấy giờ Thiên Vương Thích bảo chư Thiên Tam
thập tam rằng:
“Các ngươi hãy lại đây! Nếu trước kia chúng ta
vốn là Phạm thiên, sống trên cõi Phạm thiên, thường ba lần
cung kính, lễ sự Phạm thiên vương thì các vị ấy nay tất cả đều
cung kính lễ sự Thế Tôn. Lý do vì sao? Vì Thế Tôn là Phạm
thiên, là vị Phạm thiên sẽ tạo hóa những bậc tối tôn, những
chúng sanh đã sanh, những chúng sanh đã có và sẽ có, những gì
Phạm thiên biết, Ngài đều biết hết, những gì Phạm thiên có thể
thấy, Ngài đều thấy hết.”
Rồi Thiên Vương Thích, chư Thiên cõi Tam thập
tam, Ngũ Kết nhạc tử, nếu trước kia từng là Phạm thiên, sống
trên cõi Phạm thiên, ba lần cung kính, lễ sự Pham thiên, thì
nay họ thảy đều hướng sự cung kính, lễ sự ấy đến Đức Thế Tôn,
cúi đầu trước Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, Thiên Vương Thích, chư Thiên Tam Tập
Tam và Ngũ Kết nhạc tử lại lần nữa cung kính lễ sự Thế Tôn,
cúi đầu lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi bỗng nhiên
biến mất khỏi chỗ đó, không thấy nữa.
Bấy giờ Phạm thiên với sắc tượng nguy nguy,
sáng chói rực rỡ, vào lúc trời gần sáng, đi đến chỗ Phật, cúi
đầu sát chân Phật, rồi đứng sang một bên, dùng kệ bạch Thế
Tôn:
- Do gây nhiều
thiện ích
- Do lợi nghĩa,
là “trời”.
- Hiền giả ở
Ma-kiệt,
- Bà-sa-bà hỏi
han.
“Khi Đại Tiên Nhân nói pháp này, Thiên Vương
Thích xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp khác phát sanh và
tám vạn chư Thiên cũng xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp
phát sanh.”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Phạm thiên rằng:
“Quả như vậy! Quả như vậy! Đúng như Phạm thiên
đã nói:
- Do gây nhiều
thiện ích
- Do lợi nghĩa,
là “trời”.
- Hiền giả ở
Ma-kiệt,
- Bà-sa-bà hỏi
han.
“Này Phạm thiên, khi Ta nói pháp, Thiên Vương
Thích xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh và tám
vạn chư Thiên cũng xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát
sanh.”
Đức Phật thuyết như vậy. Thiên Vương Thích, chư
Thiên Tam thập tam, Ngũ Kết nhạc tử và Đại phạm thiên, sau khi
nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán,
quyển. Tương đương Pāli D. 21 Sakkapañha-sutta. Hán, biệt
dịch No.1(14). Trường A-hàm kinh số 14 “Thích Đề-hoàn Nhân
Vấn”; No.15 Phật Thuyết Đế Thích Sở Vấn Kinh, Tống Pháp Hiền
dịch; Tham chiếu No.203 Tạp Bảo Tạng Kinh kinh số 73 “Đế
Thích Vấn Sự Duyên Kinh”, Nguyên Ngụy, Cát-ca-dạ &
Đàm-vô-sấm dịch (Đại 4, tr. 476).
-
[02] Ma-kiệt-đà;
Pāli: Magadha. Vương xá thành; Pāli: Rājagaha. Nại lâm;
No.1(14) Am-bà, Pāli: Ambasasaiḍa. Nhân-đà-la thạch thất;
No.1(14) Nhân-đà-sa-la khốt (quật); Pāli: Indasāla-gūha.
Bệ-đà-đề; No.1(14) Ty-đà sơn; Pāli: Vediyaka.
-
[03] Thiên Vương
Thích hay Thiên Đế Thích; Pāli: Sakka devānam inda.
-
[04] Ngũ Kết nhạc
tử; cũng thường gọi là Ngũ Kế (năm chỏm); No.14 gọi là Chấp
nhạc thần Ban-giá-dực. No.15: Ngũ Kết Càn-thát-bà vương tử.
Sở dĩ có tên như vậy vì khi thọ sanh nhân gian, lúc còn nhỏ,
vị này thắt năm cái búi tóc trên đầu. Pāli: Pañcasikha
Gandhabbaputta, một vị Càn-thát-bà (Gandhabba) xử dụng cây
huyền cầm.
-
[05] Lưu ly cầm.
Pāli: Beluvapauvīā: một nhạc khí nguyên là của Māra.
-
[06] Dục tương ưng
kệ, Long tương ưng kệ, Sa-môn tương ưng kệ, A-la-ha tương
ưng kệ. Pāli: buddhūpasahitā dhammūpasahitā saghūpasahitā
arahantūpasahitā kāmūpasahitā, nói về Phật, về Pháp, về
Tăng, về A-la-hán, về dục.
-
[07] Hán: Hiền.
No.1(14) Bạt-đà; Pāli: Bhaddā, con gái của Timbaru, Chấp
nhạc Thiên vương.
-
[08] Hán: nguyệt
cập Đam-phù-lâu.Pāli: (…) Timbara Suriyavaccase, (cha nàng)
Timbara, (và nàng thì) rực rỡ như mặt trời.
-
[09] Hán: kim túc
sa. Pāli: kiñjakkha, tơ sen hay nhụy sen.
-
[10] Hán: long
tượng.
-
[11] Pāli: amata
muni jigīsāno, (như) tu sĩ khát vọng sự bất tử (hay cam lộ).
-
[12] Các từ Mâu-ni
ở đây chỉ chung các ẩn sĩ, hay tu sĩ; không chỉ riêng Đức
Thích-ca Mâu-ni. Xem thêm chú thích trên.
-
[13] Trong nguyên
bản: cúng dường chư Vô trước.
-
[14] Nhật chi thân.
Pāli: Ādicca-bandhu, bà con của mặt trời, chỉ Đức Thích Tôn;
theo truyền thuyết, dòng họ Thích xuất thân từ Mặt trời.
-
[15] Đại Tiên Nhân.
Pāli: Mahesi. Chỉ Phật.
-
[16] Uất-bệ-la.
Pāli: Uruvela, tên thôn; phía Nam Bồ-đề đạo tràng.
-
[17] Ni-liên-thiền
hà. Pāli: Nerañjarā, chi lưu của sông Hằng, cách chỗ Phật
thành đạo khoảng một dặm.
-
[18]
A-xà-hòa-la-ni-câu-loại. Pāli: Ajapāla-Nigrodha, tức cây
bồ-đề.
-
[19] Đam-phù-lâu
Nhạc vương. Pāli: Timbaru-Gandhabba-rāja, Thần âm nhạc (vua
Càn-thát-bà) tên là Timbaru.
-
[20] Hiền Nguyệt
Sắc. Pāli: Bhaddā Suriya-vaccasā, nàng Bhaddā lộng lẫy như
mật trời.
-
[21] Thiên danh Kết
Ma-đâu-lệ ngự xa tử. No.1(14): Thi-hán-đà, Thiên đại tướng
tử; Pāli: Sikkhaī nāma Mātalissa sathāhakassa putto,
Sikkhandi, vốn là con trai của thần đánh xe Mātali.
-
[22] Câu-dực, cũng
gọi la Kiêu-thi-ca. Pāli: Kosiya, biệt danh của Thiên Đế
Thích.
-
[23] Thạch nham.
Pāli: Salaāgāra, ngôi nhà (agāra) có những cây salaa (loại
cây tỏa mùi thơm) ở trước cửa (bản hán đọc là Sela-lagāra?).
No.1(14): tại ngôi nhà của một người Bà-la-môn.
-
[24] Thiên tượng
xa. No.1(14): thiên bức hảo xa, cỗ xe báu có bánh xe nghìn
căm.
-
[25] Bệ-sa-môn,
hoặc Tì-sa-môn. Pāli: Vessavaa, Đa Văn Thiên vương, đứng đầu
trong Tứ đại Thiên vương.
-
[26] Bàn-xà-na.
Pāli: Bhuñjatī (Diệu Tý).
-
[27] Cù-tỳ Thích
nữ. Pāli: Gopikā nāma Sakya-dhitā.
-
[28] Cù-bà thiên
tử. Pāli: Gopako devaputto.
-
[29] Kỹ nhạc cung.
Pāli: Gandhabbakāya, đội viên đội âm nhạc của Thiên Đế
Thích.
-
[30] Nguyên Hán: dữ
nhãn Ưu-bà-di. Pāli: upāsikā cakkhumato ahosi, tôi vốn là
Ưu-bà-di, vị nữ đệ tử của Bậc Hữu Nhãn, tức Đức Phật.
-
[31] Nguyên Hán:
phản bối bất hướng pháp, Pháp quay vào nội tâm chứ không
hướng ra bên ngoài. Pāli: paccatta veditabbo hi dhammo.
-
[32] Nguyên Hán:
thị nhãn giác thiện thuyết. Pāli: sudesito
cakkhumatānubuddho, pháp ấy được khéo thuyết bởi Đấng Giác
Ngộ có mắt.
-
[33] Pāli: te
coditā Gotama-sāvakena savegam āpādu samecca Gopaka, “họ bị
mắng vì là đệ tử của Gotama, cuối cùng, đồng ý với Gopaka
(và nói như sau)…”
-
[34] Ta, lời của
những Thiên tử bị Cù-bà mắng.
-
[35] Pāli: Te disvā
samvegam (...), (Đế Thích) sau khi thấy chư Thiên hiện diện
ưu phiền (vì họ bị vượt qua ngay tại chỗ).
-
[36] Thắng thiên,
chỉ cho Thiên Đế Thích. Pāli: Devabhibhū.
-
[37] Diệu tức ngôn
(những lời trầm lắng). Pāli: vaco nisamma, suy nghĩ sâu xa
về những lời (khiển trách). Trong bản Hán, đọc là nisama
(diệu tức, hoàn toàn lắng xuống), thay vì nisamma (tư duy
sâu xa).
-
[38] Nguyên Hán:
tri dục . Pāli: kāmābhibhū, vị đã chiến thắng dục vọng.
-
[39] Thắng phục
căn. Pāli: buddha namassāma jina janid, “chúng con lễ Phật,
Đấng Chiến Thắng muôn loài”. Trong bản Hán, Janinda, Thiên
đế của sanh loại, được hiểu là: jana (sanh loại) = jita: bị
chinh phục, và inda (Thiên đế) = indriya: căn (quan năng hay
giác quan).
-
[40] Hán: thử quỷ.
Pāli: aya yakkho, con quỷ Dạ-xoa này. Yakkha (Dạ-xoa), Thiên
Đế Thích cũng thường được gọi như vậy. Yakkha đôi khi là một
mỹ từ cũng được dùng để tán Phật, như M.56 (tr.386) (....)
buddhasa (....) anupalittassa āhuneyya yakkhassa, Đức Phật
(....) vị Yakkha vô nhiễm, ứng cúng.
-
[41] Bà-sa-bà.
Pāli: Vāsava, một tên khác của Thiên Đế Thích. Xem cht. 21,
kinh 131.
-
[42] Chủng chủng
thân. Pāli: Putthukāyā, phàm phu thân.
-
[43] Kết. Pāli:
sayojana, chỉ phiền não trói buộc.
-
[44] Xan và tật.
Pāli: issā-macchariya. Trong bản Pāli, Sakka hỏi do kiết sử
gì (kiṃ samyojanā) mà chúng sanh gây hận thù (savera). Phật
trả lời như vậy. Hai bản kia cũng tương tợ bản Pāli. Có lẽ
bản Hán này dịch sát, vì câu hỏi của Thiên Đế Thích phiếm
định.
-
[45] Hán: vô
trượng. Pāli: adaiā, không chiến tranh, gây hấn nhau.
-
[46] Trong các bản
kia, Thiên Đế Thích đã hỏi tương tợ như vậy.
-
[47] Ái bất ái.
Pāli: Piyāppiya, khả ái và không khả ái, yêu và ghét.
-
[48] Pāli: chanda:
ham muốn.
-
[49] Niệm, cũng
thường nói là tầm. Pāli: vitakka. No.1(14) Ái do tưởng sanh;
Pāli: chando (... ) vitakkanidāno , dục có nguyên nhân là
tầm, tức tầm cầu hay suy nghĩ tìm tòi.
-
[50] Tư. Bản Pāli:
papañca-saññā-sakhā, hý luận vọng tưởng.
-
[51] Diệt hý đạo
tích. Pāli: papañca-saññā-sakhā-nirodha-gāmini- patipadā,
thực hành hay tu tập dẫn đến chỗ diệt trừ hý luận vọng
tưởng.
-
[52] Niệm, ngôn,
cầu; No.1(14): khẩu, tưởng, cầu. Pāli không đề cập và thay
bằng somanassa, domanassa, upekkha, hỷ, ưu và xả. Ba pháp
này trong bản Hán được trả lời cho câu hỏi khác ở sau. Xem
cht.54 dưới.
-
[53] Tức Biệt giải
thoát (luật nghi), hay Ba-la-đề-mộc-xoa.
-
[54] Pāli:
somanassa, domanassa, upekkha, xem cht.52 trên.
-
[55] Đồng nhất
thuyết, đồng nhất dục, đồng nhất ái, đồng nhất lạc, đồng
nhất ý. Pāli: ekantavādā ekantasīlā ekantachandā
ekanta-ajjhosānā ti? Đồng một chủ thuyết, đồng một giới đúc,
đồng một ước muốn, đồng một chí hướng.
-
[56] Pāli:
anekadhātu-nānādhātu, vô số giới loại sai biệt.
-
[57] Pāli:
accantanihā accantayogakkhemī accantabrahmacārī
accantapariyosānā ti? “Đồng một cứu cánh, đồng một an ổn,
đồng một phạm hạnh, đồng một mục đích”.
-
[58] Pāli:
tahāsakhaya-vimutta, ái tận giải thoát, hay giải thoát do
diệt tận khát ái.
-
[59] Ngũ dục công
đức. Pañca kāma-guā, năm phẩm chất, hay đặc tính, của dục.
-
[60] Tùy sở năng,
tùy kỳ lực. Định nghĩa từ sakka, mà nghĩa đen là “khả năng”.
-
[61] Tức Thiên Đế
Thích.
-
[62] Hán: đắc ly
đắc hỷ. Pāli: veda-pailābha, somanassa-pailābha, có được cảm
giác phấn khích, hoan hỷ.
-
[63] Sai giáng, ở
đây có lẽ chỉ sự lần lượt chuyển sanh.
-
[64] Tức phong làm
Càn-thát-bà vương.