- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như Lai đã tự mình giác ngộ về thế gian và
cũng nói lại cho người khác. Như Lai biết[02]
thế gian. Như Lai tự giác ngộ về sự tập khởi của thế gian và
cũng nói lại cho người khác. Như Lai đoạn trừ thế gian tập.
Như Lai tự giác ngộ sự diệt tận của thế gian và cũng nói cho
người khác. Như Lai chứng ngộ thế gian diệt. Như Lai tự giác
ngộ đạo tích[03]
của thế gian và cũng nói cho người khác. Như Lai tu thế gian
đạo tích.
“Nếu có tất cả những gì cần đuơc hiểu biết một
cách toàn diện[04],
tất cả những gì điều đó Như Lai đã biết, thấy, giác, ngộ,
chứng đắc. Vì sao vậy? Như Lai từ đêm chứng ngộ Vô thượng
chánh đẳng chánh giác cho đến ngày hôm nay vào lúc ban đêm sẽ
đi vào tịch diệt trong Vô dư Niết-bàn giới[05];
trong khoảng thời gian giữa đó, nếu những gì được nói ra, được
ứng đối từ chính miệng của Như Lai, tất cả những điều ấy đều
là chắc thật, không hư vọng, không ra ngoài sự Như[06],
cũng không phải là điên đảo. Đó là sự chắc thật, là sự chân
thật.
“Nếu nói về sư tử như thế nào, thì hãy nói về
Như Lai cũng như vậy. Vì sao vậy? Như Lai ở giữa đại chúng nếu
có giảng thuyết thì đó chính là tiếng rống của Sư tử[07].
“Đối với tất cả thế gian, Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Phạm chí, từ trời đến người, Như Lai là Phạm Hữu[08].
Như Lai là Bậc Chí Lãnh[09]
vì không phiền cũng không nhiệt. Như Lai là Bậc Chân Thật
không hư vọng[10].”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói bài kệ:
- Biết tất cả
thế gian;
- Ra khỏi mọi
thế gian;
- Thuyết tất cả
thế gian;
- Trọn thế gian
như thật[11]
- Đấng Tối Tôn
Đại Hùng
- Giải thoát
mọi triền phược,
- Diệt tận hết
thảy nghiệp,
- Sanh tử đều
giải thoát.
- Là trời cũng
là người,
- Thảy đều quy
mạng Phật.
- Cúi đầu lễ
Như Lai,
- Đại dương sâu
vô cực.
- Chư Thiên,
thần Hương âm[12],
- Kính lạy Đấng
Đã Biết.
- Chúng sanh
trong tử sanh,
- Đều cúi đầu
quy phục,
- Cúi đầu lễ
Trí sĩ;
- Quy mạng Đấng
Thượng Nhân;
- Không trần
lụy, vô ưu,
- Vô ngại, các
giải thoát;
- Vì vậy, hãy
vui thiền,
- Sống viễn ly
tịch tịnh.
- Hãy tự mình
đốt đèn,
- Vì Như Lai
khó gặp[13].
- Không gặp
thời Như Lai,
- Đời sống
trong địa ngục.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi Phật
thuyết, hoan hỷ phụng hà nh.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli A.4.23 Loka-sutta; tham chiếu It. 112 Loka.
-
[02] Bốn Thánh đế,
tri khổ, đoạn tập, chứng diệt và tu đạo.
-
[03] Đạo tích;
Pāli: paipāda, phương pháp, hay đường lối thực hành.
-
[04] Nhất thiết tận
phổ chánh hữu. Có lẽ là (…) chánh tri, thay vì chánh hữu.
Tham chiếu Pāli: yam… sadevakassa lokassa… sadevamanussasāya
diha suta muta viññata patta pariyesita anuvicarita manasā
sabba ta tathāgatena abhisabuddha, thế giới này bao gồm
Thiên giới, cho đến, chư Thiên và nhân loại, những gì được
thấy, được nghe, được nghĩ đến, được biết đến, được đạt đến,
được tầm cầu, được suy xét bởi ý; tất cả những cái ấy đều
được Như Lai giác ngộ.
-
[05] Vô dư Niết-bàn
giới. Pāli: anupādisesā nibbānadhātu.
-
[06] Bất ly ư như.
Pāli nói: sabba tam tatheva hoti, no aññathā, tất cả những
điều ấy chính thực là như vậy, không thể khác.
-
[07] Pāli khác hẵn:
nói như vậy thì cũng làm như vậy (...) cho nên gọi là Như
Lai. Yathāvādī tathākārī (...) tathāgato vuccati.
-
[08] Phạm Hữu được
hiểu là “Bậc Tối Diệu” (Pāli: Brahmabhūta, S.IV. Pp-95, M.I.
P.111), không được đề cập trong bản Pāli.
-
[09] Chí lãnh hữu,
cực kỳ mát lạnh, vì đã dập tắt các thứ lửa. Pāli:?
-
[10] Chân đế bất hư
hữu, không rõ Pāli. Đoạn văn Pāli được coi tương đương: (…)
Tathāgato abhibhū anabhibhūti aññadatthudaso vasavattī, Như
Lai là Vị chiến thắng, Vị không thể bị đánh bại, là Vị thấy
tất cả, biết tất cả, tự do tự tại.
-
[11] Pāli: sabha
loke yathātatham, (biết) tất cả thế gian một cách như thật.
-
[12] Hương âm thần,
hay nhạc thần, hay Càn-thát-bà; Pāli: Gandhabba.
-
[13] Vô ngã tất
thất thời.
|