-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
“Đừng sợ hãi phước[02]
mà hãy có ý niệm yêu thích. Vì sao vậy? Vì những gì được gọi
là phước thì cũng nói là lạc. Sự sợ hãi đối với phước là không
có ý niệm yêu thích. Vì sao vậy? Những gì là phi phước được
nói là khổ.
“Ta nhớ lại trong thời quá khứ, lâu dài tác
phước, lâu dài thọ báo mà ý niệm yêu thích. Thời quá khứ Ta
hành từ tâm trong bảy năm mà trải qua bảy lần kiếp thành và
kiếp hoại, không tái sanh trong thế gian này. Nếu thời kiếp
hoại, Ta sanh lên cõi trời Hoảng dục[03].
Trong thời kiếp thành, Ta tái sanh trở xuống trong cung điện
trống không của Phạm thiên và là Đại Phạm thiên trong cõi Phạm
thiên đó.
“Trong những trường hợp khác, ta trải qua một
ngàn lần làm Tự Tại Thiên vương, ba mươi sáu lần làm Thiên Đế
Thích và vô lượng lần làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh.
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta
có tám vạn bốn ngàn thớt voi lớn được phủ những đồ cưỡi rất
đẹp; dùng các báu bạch châu lạc[04]
trang sức, phủ lên voi chúa đầu đàn Vu-sa-hạ[05].
“Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh,
có tám vạn bốn ngàn con ngựa được phủ lên các thứ đồ cưỡi đẹp.
Dùng các báu vàng, bạc, dao lạc để trang sức cho ngựa đầu đàn
là ngựa Mao[06].
“Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh,
có tám vạn bốn ngàn cỗ xe, trang sức bằng bốn cánh, dùng da
vằn quý báu đủ màu của các thú như sư tử, cọp, beo, dệt thành
đủ loại màu sắc xen lẫn trang sức cho cỗ xe dẫn đầu chạy rất
nhanh chóng tên là xe Nhạc thanh[07].
“Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh,
có tám vạn bốn ngàn thành lớn, giàu có cùng cực, dân chúng
đông đúc, lấy vương thành Câu-xá-hòa-đề[08]
làm đầu.
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta
có tám vạn bốn ngàn ngôi lầu; có bốn loại lầu báu, làm bằng
vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh; đứng đầu là Chánh pháp điện[09].
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta
có tám vạn bốn ngàn ngự tòa; bốn loại tòa báu, bằng vàng, bạc,
lưu ly và thủy tinh; trải lên bằng các thứ nệm, chiếu dệt bằng
lông năm sắc, phủ lên bằng những gấm, the, sa trun, lụa là; có
chăn nệm lót, hai đầu để gối, trải thảm quý bằng da sơn dương[10].
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta
có tám vạn bốn ngàn chiếc áo song y, áo sơ-ma[11],
áo gấm, áo lụa, áo kiếp bối, áo gia-lăng-già-ba-hòa-la.
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta
có tám vạn bốn ngàn người nữ, thân thể nõn nà, sạch sẽ sáng
sủa, sắc đẹp hơn người, không thua chư Thiên, tư dung đoan
chánh, ai nhìn cũng sinh ưa thích, trang điểm bằng các thứ vật
báu, anh lạc; tất cả đều thuộc dòng Sát-lợi. Ngoài ra, những
người thuộc dòng khác thì nhiều vô số.
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta
có tám vạn bốn ngàn món ăn, ngày đêm thường dọn ra cho Ta ăn.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn món ăn
kia, có một món hết sức ngon, sạch sẽ, có vô lượng mùi vị, là
món Ta thường ăn.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn người nữ
kia có một người thuộc dòng Sát-lợi, đoan chánh đẹp đẽ khác
thường, hầu hạ Ta.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn song y kia
có một chiếc áo song y, hoặc là áo sơ ma, hoặc áo gấm, hoặc áo
lụa, hoặc áo kiếp-bối[12],
hoặc áo gia-lăng-già-ba-hòa-la là Ta thường mặc.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn ngự tòa
kia, có một ngự tòa làm bằng vàng, hoặc bạc, hoặc lưu ly, hoặc
thủy tinh; đồ trải lên thì dùng những tấm nệm, những chiếc
chiếu dệt bằng lông năm sắc; đồ phủ lên thì dùng gấm, the, sa
trun, lụa là, có chăn nệm lót, hai đầu để gối, có trải thảm
quý bằng da sơn dương, là Ta thường nằm.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn lầu quán
kia, có một lầu quán làm bằng vàng, hoặc bạc, hoặc lưu ly,
hoặc thủy tinh, tên là Chánh pháp điện, là nơi Ta thường ở.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn thành lớn
kia, có một thành giàu có cùng cực, dân chúng đông đúc, gọi là
thành Câu-xá-hòa-đề là chỗ ta thường ở.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn cỗ xe kia,
có một cỗ được dùng da đủ màu của các thú như sư tử, cọp, beo
dệt thành, màu sắc xen kẽ để trang hoàng, chạy rất nhanh
chóng, tên là xe Nhạc thanh, Ta thường ngồi lên, đi đến các
lầu quán để ngắm nhìn các vườn tược.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn con ngựa
kia có một con màu xanh biếc, đầu như chim, gọi là ngựa Mao,
là Ta thường cưỡi, đi đến các lầu quán để ngắm các vườn tược.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn thớt voi
lớn kia, có một thớt toàn thân trắng toát, bảy chi thảy đều
ngay thẳng, gọi là voi Chúa Vu-sa-hạ, là Ta thường cưỡi đi đến
các lầu quán để ngắm các vườn tược.
“Này Tỳ-kheo, bấy giờ Ta nghĩ: ‘Đó là nghiệp
quả gì, là nghiệp báo gì, mà ngày nay Ta có đại như ý túc, đại
oai đức, đại phước hựu, đại oai thần?’
“Này Tỳ-kheo, Ta lại nghĩ: ‘Đó là ba nghiệp
quả, là ba nghiệp báo, khiến ta ngày nay có đại như ý túc, có
đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần: một là bố thí,
hai là điều phục, ba là thủ hộ’.”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói bài kệ:
- Quán sát
phước báo này,
- Diệu thiện,
nhiều ích lợi.
- Tỳ-kheo, Ta
quá khứ
- Bảy năm tu từ
tâm;
- Bảy kiếp
thành, kiếp hoại,
- Không tái
sinh cõi này.
- Lúc thế gian
hủy hoại,
- Ta sanh trời
Hoảng dục.
- Lúc thế gian
chuyển thành,
- Ta sanh vào
Phạm thiên;
- Ở đó, Ta Đại
phạm.
- Nghìn sanh,
Tự Tại thiên;
- Ba sáu lần Đế
thích;
- Vô lượng trăm
Đảnh vương.
- Sát-lợi Đảnh
Sanh vương,
- Tối tôn trong
loài người[13].
- Đúng pháp,
không dao gậy,
- Thống trị cả
thiên hạ.
- Đúng pháp,
không dối trá[14]
- Chánh an lạc,
dạy dân.
- Đúng pháp,
lần lượt truyền,
- Khắp tất cả
cõi đất.
- Chỗ giàu
sang, nhiều của,
- Sanh vào
chủng tộc ấy;
- Lúa gạo thảy
tràn đầy’
- Thánh tựu bảy
trân bảo.
- Do các phước
lớn ấy,
- Chỗ sanh đều
tự tại.
- Chư Phật ngự
thế gian,
- Những điều
Phật ấy dạy;
- Biết điều này
kỳ diệu,
- Thấy thần
thông không ít.
- Ai biết mà
không tin,
- Như vậy sanh
trong tối.
- Vì vậy hãy vì
mình
- Mong cầu đại
phước hựu.
- Hãy cung kính
Chánh pháp;
- Thường niệm
Pháp Luật Phật.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tham chiếu
Pāli A.7.58 Pacala (ngủ gục), đoạn cuối.
-
[02] Pāli: mā
bhikkhave puññāna bhāyittha, sukkhass’eta bhikkhave
adhivacana, yad ida puññaun ti, “đừng sợ phước; đồng nghĩa
với lạc, đó là phước”.
-
[03] Hoảng dục
thiên tức Quang âm thiên hay Cực quang thiên; Pāli:
Ābhassara.
-
[04] Bạch châu lạc.
-
[05] Vu-sa-hạ tượng
vương. Pāli: Uposathanāgarāja.
-
[06] Mao mã vương.
Pāli: Valāhaka-assarāja.
-
[07] Nhạc thanh xa.
Pāli: Vejayanta-ratha, cỗ xe (= cung điện) Chiến thắng.
-
[08] Câu-xá-hòa-đề.
Pāli: Kusāvati.
-
[09] Chánh pháp
điện. Pāli: Dhammapāsāda.
-
[10] Hán dịch:
gia-lăng-già-ba-hòa-la ba-giá-tất-đa-la-na Pāli:
kadalimigapavara-pacchat-tharaa, thảm lông bằng da sơn dương
cực quý.
-
[11] Sơ-ma y; Pāli:
khoma-pilotikā, vải lanh.
-
[12] Kiếp-bối y.
Pāli: kappāsika, vải bông (gòn).
-
[13] Pāli:
Muddhābhisitto khattiyo manussādhipatī, làm vua Đảnh Sanh,
thuộc dòng Sát-lợi, là bậc Nhân chủ.
-
[14] Như pháp bất
gia uổng. Pāli: asāhasena dhammena, đúng theo pháp chứ không
cưỡng chế.