- 11. PHẨM PHẠM CHÍ
- (Phần Đầu)
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ dị học Ti-lô[02]
vào lúc sáng sớm ra khỏi nước Xá-vệ, đi đến chỗ Phật, cúi đầu
làm lễ rồi ngồi xuống một bên. Phật thuyết pháp cho ông nghe,
khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô
lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành
tựu hoan hỷ xong rồi Phật ngồi im lặng.
Dị học Ti-lô sau khi được Phật thuyết pháp,
khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ xong, rời chỗ ngồi
đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, đi quanh ba vòng rồi lui về.
Bấy giờ, Phạm chí Sanh Văn[03]
ngồi trên cỗ xe trắng rất đẹp, cùng với năm trăm đệ tử, vào
lúc sáng sớm, khi ra khỏi Xá-vệ, đi đến một khu rừng để dạy đệ
tử tụng đọc kinh thơ. Phạm chí Sanh Văn từ xa trông thấy dị
học Ti-lô đi đến, bèn hỏi:
“Này Bà-ta[04],
mới sáng sớm đã từ đâu về vậy?”
Dị học Ti-lô đáp:
“Này Phạm chí, tôi đi thăm Đức Thế Tôn, lễ sự,
cúng dường rồi về đây.”
Phạm chí Sanh Văn hỏi:
“Có biết Sa-môn Cù-đàm ở nơi trống vắng yên
tĩnh học trí tuệ chăng[05]?”
Dị học Ti-lô đáp:
“Phạm chí, hạng người nào mà có thể biết Thế
Tôn ở nơi trống vắng yên tĩnh học trí tuệ? Này Phạm chí, nếu
biết Thế Tôn ở nơi trống vắng yên tĩnh, học trí tuệ thì cũng
phải bằng Thế Tôn. Nhưng, này Phạm chí, kinh thơ mà tôi đọc có
bốn cú nghĩa[06]
và do bốn cú nghĩa này mà tôi nhất định tin tưởng Thế Tôn là
Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi
Thế Tôn là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú
hướng.
“Này Phạm chí, cũng như thợ săn voi rành nghề,
đi rảo trong một khu rừng, ở giữa rừng cây nhìn thấy dấu chân
voi to lớn, thấy rồi thì nhất định tin tưởng con voi này phải
là rất lớn mới có dấu chân như vậy. Này Phạm chí, tôi cũng như
vậy. Trong kinh thơ mà tôi đọc có bốn cú nghĩa, do bốn cú
nghĩa này mà tôi nhất định tin rằng Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô
Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi Thế Tôn là toàn
thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.
“Bốn cú nghĩa ấy là thế nào?
“Này Phạm chí, các luận sĩ Sát-lợi có trí tuệ,
học rộng, quyết định[07],
có thể khuất phục người đời, không thứ gì là không biết, rồi
đem những điều được thấy mà tạo tác văn chương, lưu hành trong
thế gian. Họ nghĩ như vầy, ‘Ta đến chỗ Sa-môn Cù-đàm hỏi sự
việc như vầy, nếu trả lời được, Ta lại hỏi nữa. Nếu không trả
lời được, Ta khuất phục rồi bỏ đi’. Họ nghe Thế Tôn đang trú
tại một thôn ấp nào đó, bèn tìm đến. Sau khi gặp Thế Tôn, hỏi
còn không dám, há lại nói đến sự khuất phục. Này Phạm chí,
kinh thư mà tôi đã đọc dùng được cho cú nghĩa thứ nhất này.
Nhân ý nghĩa này, tôi nhất định tin rằng Thế Tôn là Như Lai,
Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi Thế Tôn là
toàn thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.
“Cũng vậy, những Phạm chí có trí tuệ, những Cư
sĩ có trí tuệ, những luận sĩ Sa-môn có trí tuệ, đa văn, quyết
định, có khả năng khuất phục người đời, không điều gì là không
biết, rồi đem những điều được thấy tạo tác văn chương lưu hành
thế gian. Họ nghĩ như vầy, ‘Ta đến chỗ Sa-môn Cù-đàm hỏi sự
việc như vầy, nếu trả lời được, Ta lại hỏi nữa. Nếu không trả
lời được, Ta khuất phục rồi bỏ đi’. Họ nghe Thế Tôn đang trú
tại một thôn ấp nào đó, bèn tìm đến. Sau khi gặp Thế Tôn, hỏi
còn không dám, há lại nói đến sự khuất phục. Này Phạm chí,
kinh thư mà tôi đã đọc dùng được cho cú nghĩa thứ tư này. Nhân
ý nghĩa này, tôi nhất định tin rằng Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô
Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi Thế Tôn là toàn
thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.
“Này Phạm chí, kinh thơ mà tôi được đọc có bốn
cú nghĩa này. Tôi do bốn cú nghĩa này mà nhất định tin tưởng
rằng Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác,
pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai
khéo thú hướng.”
Phạm chí Sanh Văn nói rằng:
“Này Bà-ta, ông thật hết sức cúng dường Sa-môn
Cù-đàm. Do sở nhân, sở duyên này mà hoan hỷ phụng hành.
Dị học Ti-lô đáp:
“Này Phạm chí, thật vậy, thật vậy, tôi hết sức
cúng dường Đức Thế Tôn ấy và cũng hết sức tán thán. Tất cả thế
gian cũng nên cúng dường.”
Lúc bấy giờ Phạm chí Sanh Văn trên xe bước
xuống, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng về rừng Thắng,
vườn Cấp cô độc ba lần làm lễ:
“Nam mô Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.”
Ba lần như vậy xong, trở lên cỗ xe trắng rất
đẹp, đi đến rừng Thắng, vườn Cấp cô độc. Đến chỗ xe có thể đi
được, rồi xuống xe đi bộ, tiến về chỗ Phật, chào hỏi xong ngồi
xuống một bên, đem câu chuyện mà Phạm chí Sanh Văn vừa thảo
luận với dị học Ti-lô, kể lại hết cho Phật nghe.
Thế Tôn nghe xong, nói rằng:
“Này Phạm chí, dị học Ti-lô nói thí dụ về dấu
chân voi chưa được hoàn hảo, chưa được trọn vẹn. Thí dụ về dấu
chân voi mà được nói một cách hoàn hảo, trọn vẹn để Ta nói cho
ông nghe. Hãy khéo nghe kỹ.
“Này Phạm chí, cũng như thợ săn voi rành nghề,
đi vào trong một khu rừng, ở giữa đám cây rừng, nhìn thấy dấu
chân voi to lớn. Thấy rồi, có thể tin rằng con voi kia phải
hết sức to lớn mới có dấu chân như vậy.
“[08]Này
Phạm chí, thợ săn voi rành nghề ấy, hoặc giả không tin, vì
rằng trong khu rừng ấy có một loại voi cái được gọi là
Gia-lê-nậu[09],
thân thể rất cao lớn, nó có dấu chân này. Rồi thợ săn tìm theo
dấu chân. Lại thấy dấu chân voi rất lớn. Thấy rồi có thể tin
rằng con voi này hết sức to lớn mới có dấu chân như vậy.
“Này Phạm chí, thợ săn rành nghề ấy, hoặc giả
vẫn không tin, vì rằng trong khu rừng ấy lại còn có loại voi
cái được gọi là Gia-la-lê[10],
thân thể rất cao lớn, nó có dấu chân này. Rồi thợ săn tìm theo
dấu chân này, lại thấy dấu chân voi to lớn. Thấy rồi, có thể
tin rằng con voi này phải hết sức to lớn mới có dấu chân như
vậy.
“Này Phạm chí, thợ săn rành nghề ấy, hoặc giả
vẫn không tin, vì rằng trong rừng này còn có loại voi cái được
gọi là Bà-hòa-nậu[11],
thân thể rất cao lớn, nó có dấu chân này. Bèn đi tìm dấu chân
này. Lại thấy dấu chân voi to lớn. Thấy rồi có thể tin rằng
con voi này phải hết sức to lớn mới có dấu chân này. Thợ săn
sau khi tìm theo dấu chân, thấy dấu chân voi rất lớn. Dấu chân
voi rất lớn, vuông vức, rất dài, rất rộng, toàn thể chu vi bàn
chân lún sâu xuống đất, và thấy con voi ấy hoặc đi lui, hoặc
đi tới, hoặc dừng lại, hoặc chạy, hoặc đứng, hoặc nằm. Thấy
con voi ấy rồi bèn nghĩ ‘Nếu có dấu chân lớn ấy tất phải con
voi lơn này’.
“Này Phạm chí, cũng vậy, nếu trong đời xuất
hiện Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp
Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu; vị ấy đối với thế gian
này, gồm chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người đến
người, mà tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ,
biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều
cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Vị ấy thuyết
pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có văn, có nghĩa, trọn
đủ thanh tịnh, hiển hiện phạm hạnh, pháp được vị áy thuyết
giảng, hoặc Cư sĩ, hoặc con nhà Cư sĩ, nghe xong được tín tâm.
Sau khi ở trong chánh pháp luật của Như Lai mà được tín tâm
rồi, bèn nghĩ rằng ‘Tại gia chật hẹp, đầy những nhọc nhằn bụi
bặm. Đời xuất gia học đạo rộng rãi bao la. Ta nay sống tại gia
bị những phiền lớn khóa chặt, không được trọn đời tịnh tu phạm
hạnh. Vậy ta hãy từ bỏ những tài vật ít hay tài vật nhiều, từ
giã thân thuộc lớn hay thân thuộc nhỏ, cạo bỏ râu tóc, khoác
áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình để học
đạo’.
“Người ấy về sau hãy từ bỏ những tài vật ít hay
tài vật nhiều, từ giã thân thuộc lớn hay thân thuộc nhỏ, cạo
bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống
không gia đình để học đạo. Vị ấy sau khi xuất gia, từ giã thân
thuộc, thọ yếu pháp Tỳ-kheo, tu tập cấm giới, thủ hộ Tùng giải
thoát; lại khéo thu nhiếp các oai nghi, lễ tiết, thấy những
lỗi nhỏ nhặt cũng thường đem lòng lo sợ, thọ trì học giới.
“Người ấy lìa bỏ sát sanh, đoạn trừ sát sanh,
dẹp bỏ dao gậy, có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho
tất cả, cho đến côn trùng. Người ấy đối với sự sát sanh, tâm
đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự lấy của không cho, đoạn trừ
sự lấy của không cho, chỉ lấy của được cho, vui trong sự lấy
của được cho, thường ưa bố thí, hoan hỷ không keo kiết, không
trông chờ báo đáp. Người ấy đối với sự lấy của không cho, tâm
đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa phi phạm hạnh, đoạn trừ phi
phạm hạnh, siêng tu phạm hạnh, tinh cần diệu hạnh thanh tịnh
vô uế, ly dục, đoạn dâm. Người ấy đối với sự phi phạm hạnh tâm
đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa nói láo, đoạn trừ nói láo, nói
lời chắc thật, an trụ trên sự thật không di động, nói tất cả
những lời đều đáng tin, không lừa gạt thế gian. Người ấy đối
với sự nói láo, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa nói hai lưỡi, đoạn trừ nói hai
lưỡi, sống không hai lưỡi, không phá hoại người khác. Không
nghe người này nói lại người kia để phá hoại người này. Không
nghe từ người kia nói lại người này để phá hoại người kia.
Chia rẽ thì làm cho hòa hợp, đã hòa hợp thì làm cho hoan hỷ.
Không kết bè đảng, không vui theo bè đảng, không ca ngợi việc
kết bè đảng. Người ấy đối với hai lưỡi, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa lời nói cộc cằn, đoạn trừ nói
cộc cằn. Nếu có lời nói nào mà lời lẽ thô lỗ, tiếng dữ chói
tai, mọi người không vui, mọi người không thích, khiến người
khác khổ não, khiến không được định, đoạn trừ những lời như
vậy. Nếu có những lời nào mà ôn hòa, mềm mỏng, nghe lọt tai,
thấm vào lòng, đáng ưa, đáng thích, khiến người khác an ổn,
lời tiếng rõ ràng đầy đủ, không khiến người sợ, khiến người
được định. Nói những lời như vậy. Người ấy đối với sự nói cộc
cằn, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa nói thêu dệt, đoạn trừ nói
thêu dệt; nói đúng thời, nói đúng sự thật, nói đúng pháp, nói
đúng nghĩa, nói tịch tịnh, nói sự ưa thích tịch tịnh, hợp sự
việc, hợp thời cơ, khéo khuyến giáo, khéo khiển trách. Người
ấy đối với sự nói thêu dệt, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa việc buôn bán, dẹp bỏ cân đong
và đấu hộc; cũng không nhận hàng hóa, không buộc trói người,
không mong đong lừa, cân thiếu, không vì lợi nhỏ mà xâm hại,
gạt gẫm người. Người ấy đối với sự buôn bán, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận đàn bà góa, đồng
nữ, đoạn trừ sự thâu nhận đàn bà góa, đồng nữ. Đối với sự thâu
nhận đàn bà góa, đồng nữ, người ấy tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận nô tỳ, đoạn trừ
sự thâu nhận nô tỳ. Người ấy đối với sự thâu nhận nô tỳ, tâm
đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận voi, ngựa, bò,
dê, đoạn trừ sự thâu nhận voi, ngựa, bò, dê. Người ấy đối với
sự thâu nhận voi, ngựa, bò, dê, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận gà, heo, đoạn trừ
sự thâu gà, heo. Người ấy đối với sự thâu nhận gà, heo, tâm đã
tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận ruộng vườn, quán
xá, đoạn trừ sự thâu nhận ruộng vườn, quán xá. Người ấy đối
với sự thâu nhận ruộng vườn, quán xá, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận lúa, thóc, đậu
sống, đoạn trừ sự thâu nhận lúa, thóc, đậu sống. Người ấy đối
với sự thâu nhận lúa, thóc, đậu sống, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa rượu, đoạn trừ rượu. Người ấy
đối với sự uống rượu, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa giường cao rộng lớn, đoạn trừ
giường cao rộng lớn. Người ấy đối với giường cao rộng lớn, tâm
đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa tràng hoa, anh lạc, hương bột,
phấn sáp; đoạn trừ tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp.
Người ấy đối với tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp, tâm
đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa ca, vũ, xướng, kỹ và đi đến
xem nghe; đoạn trừ ca, vũ, xướng, kỹ và đi đến xem nghe. Người
ấy đối với ca, vũ, xướng, kỹ và đi đến xem nghe, tâm đã tịnh
trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận tiền bạc, đoạn
trừ sự thâu nhận tiền bạc. Người ấy đối với sự thâu nhận tiền
bạc, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự ăn quá ngọ, đoạn trừ sự ăn
quá ngọ. Người ấy đối với sự ăn quá ngọ, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy sau khi thành tựu Thánh giới tụ này
rồi, lại sống hết sức tri túc, áo chỉ cốt che thân, ăn chỉ cốt
nuôi thân, du hành đến đâu đều mang theo y bát, đi không luyến
tiếc, cũng như con nhạn mang theo đôi cánh bay liệng trong
không.
“Người ấy sau khi thành tựu Thánh giới tụ này
và hết sức tri túc rồi, lại thủ hộ các căn, thường niệm sự
khép kín, niệm tưởng muốn minh đạt, thủ hộ niệm tâm mà được
thành tựu, hằng mướn khởi ý. Khi mắt thấy sắc, không chấp thủ
sắc tướng, không đắm sắc vị; vì sự phẫn tránh[12]
mà thủ hộ căn con mắt, trong tâm không sanh tham lam, ưu não,
ác bất thiện pháp, vì thú hướng đến kia[13],
nên thủ hộ căn con mắt. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, khi ý
biết pháp không chấp thủ pháp tướng, không đắm pháp vị; vì sự
phẫn tránh mà thủ hộ ý căn, trong tâm không sanh tham lam, ưu
não, ác bất thiện pháp, vì thú hướng đến kia, nên thủ hộ ý
căn.
“Người ấy sau khi thành tựu Thánh giới tụ này
và hết sức tri túc, thủ hộ các căn rồi, lại biết rõ chân chánh
sự ra vào, khéo quán sát phân biệt sự co, duỗi, cúi, ngước,
nghi dung chững chạc, khéo đắp Tăng-già-lê và mang các y bát;
đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, nghỉ, nói năng thảy đều biết rõ chân
chánh.
“Người ấy sau khi thành tựu Thánh giới tụ này
và hết sức tri túc, thủ hộ các căn, biết rõ chân chánh sự ra
vào rồi lại sống cô độc tại nơi xa vắng, ở trong rừng vắng,
trong rừng sâu, dưới gốc cây, những nơi trống vắng yên tĩnh,
sườn non, động đá, đất trống, lùm cây, hoặc đến trong rừng,
hoặc giữa bãi tha ma. Người ấy sau khi ở trong rừng vắng, hoặc
đến gốc cây, những chỗ không nhàn yên tĩnh, trải ni-sư-đàn,
ngồi xếp kiết già, chánh thân chánh nguyện, hướng niệm nội tâm[14],
đoạn trừ tâm tham lam, không có não hại, thấy tài vật và các
nhu dụng sinh sống của người khác mà không khởi tâm tham lam
muốn khiến về mình. Người ấy đối với tham lam, tâm được tịnh
trừ.
“Cũng vậy, đối với sân nhuế, thùy miên, trạo
hối, đoạn trừ nghi hoặc, đối với các thiện pháp không còn do
dự. Vị ấy đối với sự nghi hoặc, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy đoạn trừ năm triền cái này, những thứ
làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, ly dục, ly ác bất thiện pháp, có
giác có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ thiền,
thành tựu an trụ.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai
khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục, nhưng người ấy
không cho đây là cứu cánh để nói rằng ‘Thế Tôn là Như Lai, Bậc
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được Thế Tôn nói là toàn
thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Rồi người ấy giác quán đã dứt, nội tĩnh, nhất
tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc
Nhị thiền, thành tựu an trụ.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai
khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục, nhưng người ấy
không cho đây là cứu cánh để nói rằng ‘Thế Tôn là Như Lai, Bậc
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được Thế Tôn nói là toàn
thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Rồi người ấy ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trụ nơi
chánh niệm, chánh trí, thân cảm lạc thọ, điều mà Thánh nói là
Thánh sở xả niệm lạc trụ thất, đạt đến Tam thiền, thành tựu an
trụ.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai
khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục, nhưng người ấy
không cho đây là cứu cánh để nói rằng ‘Thế Tôn là Như Lai, Bậc
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được Thế Tôn nói là toàn
thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Rồi người ấy lạc diệt, khổ diệt, ưu hỷ vốn
cũng đã diệt, không lạc, không khổ, xả niệm thanh tịnh, đạt
đến Tứ thiền, thành tựu an trụ.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai
khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục, nhưng người ấy
không cho đây là cứu cánh để nói rằng ‘Thế Tôn là Như Lai, Bậc
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được Thế Tôn nói là toàn
thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Người ấy sau khi đạt đến tịnh tâm như vậy,
thanh tịnh, không uế, không phiền, nhu nhuyến, an trụ vững
vàng, đạt được bất động tâm, thú hướng đến sự tác chứng lậu
tận trí thông. Người ấy biết như thật đây là Khổ, biết như
thật đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, đây là Khổ diệt đạo,
biết như thật đây là lậu, biết như thật đây là lậu tận, đây là
lậu diệt, đây là lậu diệt đạo.
“Người ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải
thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát
rồi thì biết mình đã giải thoát, biết như thật rằng ‘Sự sanh
đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn
tái sanh nữa’.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai
khuất, được Như Lai hành, được Như Lai phục, Người ấy lấy đây
làm cứu cánh để nói rằng ‘Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh
chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Này Phạm chí, ý ông nghĩ sao? Thí dụ về dấu
chân voi như vậy là khéo trình bày được trọn vẹn chăng?”
Phạm chí Sanh Văn bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con
đã rõ. Bạch Thế Tôn, con nay tự quy y Phật, Pháp và chúng
Tỳ-kheo Tăng. Cúi mong Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc, kể từ
hôm nay tự quy y cho đến mạng tận[15].”
Phật thuyết như vậy. Phạm chí Sanh Văn và Dị
học Ti-lô sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli M.27 Cūa-hatthīpadoma-sutta, ví dụ về dấu chân voi.
-
[02] Ti-lô dị học;
Pāli: Pilotika-paribbājaka, một du sĩ trẻ, thuộc bộ tộc
Vacchāyma.
-
[03] Sanh Văn,
Jāussonī, các kinh tiếp theo sau. Ông được kể trong số những
Bà-la-môn lỗi lạc đương thời Phật. Ông thường ở tại Xá-vệ và
thường đến gặp Phật để thảo luận. A. ghi chép nhiều nhất các
cuộc đối thoại này.
-
[04] Bà-ta. Pāli:
Vacchāyana, xem chú thích (2) ở trên.
-
[05] Trong bản
Pāli: ta ki maññati (…) samaanassa Gotamasasa
paññāveyyattiya, paito…, ông có nghĩ rằng Sa-môn Cù- đàm có
trí tuệ đặc sắc, …, là người thông bác chăng?
-
[06] Tứ cú nghĩa.
Pāli: Samane Gotame cattāri padāni, bốn dấu chân nơi Sa-môn
Gatama. Trong Pāli, pada, có nghĩa dấu chân, cũng có nghĩa
là câu văn.
-
[07] Hán: quyết
định; bản Paøli: nipue: tinh tế.
-
[08] Không tin là
voi lớn nhất. Sẽ còn có con lớn hơn nữa.
-
[09]
Gia-lê-nậuPāli: Kaerukā, tên một loại voi cái.
-
[10] Gia-la-lê;
Pāli: Kaārikā, cũng tên một loại voi cái.
-
[11] Bà-hòa-nậu;
Pāli: Vāmanikā, loại voi cái rất lớn và lùn.
-
[12] Xem cht.5,
kinh 144.
-
[13] Xem cht.6,
kinh 144.
-
[14] Chánh thân
chánh nguyện phản niệm bất hướng. Pāli: uju kāya paidhāya,
parimukha sati upahapetvā, giữ thân ngay thẳng; dựng chánh
niệm để trước mặt. Trong bản Pāli, paidhāya, “đặt để” trong
bản Hán hiểu là paidhāna, “ước nguyện”.
-
[15] Đối chiếu kinh
số 149 ở sau