- 12. PHẨM PHẠM CHÍ
- (Phần Sau)
-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Phật du hóa thành Vương xá, ở trong
rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa[02].
Bấy giờ, Ma-nạp Anh Vũ, con trai ông Đô-đề[03],
có một ít việc phải làm nên đến trọ tại nhà một người cư sĩ
trong thành Vương xá. Tại đây, Ma-nạp Anh Vũ con trai ông
Đô-đề nói với người cư sĩ mà mình ngủ trọ:
“Có Sa-môn, Phạm chí nào, bậc Tông chủ, bậc
Thầy của mọi người, thống lãnh một số đông đồ chúng, rất được
mọi người tôn kính, để tôi tùy thời đến thăm viếng, kính
phụng, hoặc có thể do khi kính phụng đó mà được hoan hỷ
chăng?”
Cư sĩ đáp:
“Có. Này Thiên ái[04],
có Sa-môn Cù-đàm, con dòng họ Thích, lìa bỏ Thích tộc, cạo bỏ
râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình mà học đạo, chứng quả Vô thượng Chánh giác[05].
Này Thiên ái, ông có thể tùy thời đến thăm viếng, kính phụng,
hoặc có thể do khi kính phụng đó mà được hoan hỷ.”
Ma-nạp Anh Vũ lại hỏi:
“Sa-môn Cù-đàm hiện nay ở chỗ nào? Tôi muốn đến
gặp.”
Cư sĩ đáp:
“Sa-môn Cù-đàm hiện ở tại rừng Trúc, vườn
Ca-lan-đa, trong thành Vương xá. Ông có thể đến đó để gặp.”
Khi ấy, Ma-nạp Anh Vũ liền rời khỏi chỗ trọ,
nhà cư sĩ, thẳng đến rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Ma-nạp Anh Vũ
từ xa trông thấy Đức Thế Tôn ở giữa rừng cây, tướng mạo đoan
chánh, đẹp đẽ khác thường, như ánh trăng giữa rừng sao sáng
chói, lóng lánh như khối núi vàng, đầy đủ tướng tốt, vòi vọi
oai nghi, các căn vắng lặng, an định, không một mảy may ngăn
ngại, hoàn toàn tự chế ngự, lắng tâm tĩnh mặc.
Sau khi thấy như thế, Ma-nạp liền đến trước
Phật và bạch:
“Bạch Cù-đàm, con có đều muốn hỏi, mong Ngài
nghe cho con mới dám trình bày.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, muốn hỏi, cứ tùy ý.”
Ma-nạp Anh Vũ hỏi:
“Bạch Cù-đàm, như con được nghe[06],
‘Nếu sống tại gia thì được hiểu biết tốt, biết đúng như pháp[07].
Người xuất gia học đạo thì không như vậy.’ Con xin hỏi Cù-đàm,
việc đó như thế nào?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Ma-nạp, sự kiện đó không nhất định[08].”
Ma-nạp Anh Vũ thưa:
“Bạch Cù-đàm, mong Ngài phân biệt sự kiện này
cho con được rõ.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, hãy lắng nghe khéo suy nghĩ, Ta sẽ
phân biệt đầy đủ cho ngươi rõ.”
Ma-nạp Anh Vũ vâng lời lắng nghe.
Đức Phật nói:
“Này Ma-nạp, nếu có kẻ tại gia hoặc xuất gia
học đạo nào làm điều tà hạnh, thì Ta không khen ngợi người đó.
Vì sao vậy? Nếu có kẻ tại gia hoặc xuất gia học đạo làm điều
tà hạnh, thì kẻ ấy không được hiểu biết tốt, không biết đúng
như pháp. Do đó, này Ma-nạp, nếu những kẻ tại gia hoặc xuất
gia học đạo làm điều tà hạnh, thì Ta không khen ngợi kẻ ấy.
“Này Ma-nạp, nếu có kẻ tại gia hoặc xuất gia
học đạo nào thực hành chánh hạnh, thì Ta khen ngợi người đó.
Vì sao vậy? Nếu có kẻ tại gia hoặc xuất gia học đạo thực hành
chánh hạnh, thì kẻ ấy chắc chắn được hiểu biết tốt, biết đúng
như pháp. Do đó, này Ma-nạp, nếu kẻ tại gia hoặc xuất gia học
đạo thực hành chánh hạnh, thì Ta khen ngợi kẻ ấy.
“Này Ma-nạp, Ta nói như vậy, nói về hai pháp
ấy, phân biệt như vậy, hiển thị như vậy. Nhưng nếu có Sa-môn,
Phạm Chí nào có năng lực, thâm nhập kiên cố, chấp chặt theo
một chiều, vị ấy sẽ nói rằng, ‘Đây là chân thật, ngoài ra là
hư vọng’.”
Ma-nạp Anh Vũ thưa:
“Bạch Cù-đàm, như con được nghe, ‘Nếu ai sống
tại gia thì có lợi ích lớn, có công đức lớn; người xuất gia
học đạo thì không như vậy[09].’
Con xin hỏi Cù-đàm, sự kiện ấy như thế nào?”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, sự kiện ấy không nhất định[10].”
Ma-nạp Anh Vũ thưa:
“Bạch Cù-đàm, mong Ngài phân biệt sự kiện đó
cho con được rõ.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, hãy lắng nghe khéo suy nghĩ, Ta sẽ
phân biệt đầy đủ cho ngươi rõ.”
Ma-nạp Anh Vũ vâng lời lắng nghe.
Đức Phật nói:
“Này Ma-nạp, nếu sống tại gia có tai hoạn lớn,
có đấu tranh lớn, có oán ghét lớn, nhưng lại làm điều tà hạnh,
thì sẽ không được quả báo lớn, không được công đức lớn[11].
Ví như người làm ruộng, có tai hoạn lớn, có đấu tranh lớn, có
oán ghét lớn, lại làm điều tà hạnh, thì sẽ không được quả báo
lớn, không được công đức lớn. Như vậy, này Ma-nạp, người sống
tại gia cũng lại như thế.
“Này Ma-nạp, người xuất gia học đạo ít có tai
hoạn, ít có đấu tranh, ít có oán ghét, nhưng lại làm điều tà
hạnh, thì sẽ không được quả báo lớn, không được công đức lớn.
Ví như người buôn bán, ít có tai hoạn, ít có đấu tranh, ít có
oán ghét, nhưng lại làm điều tà hạnh, thì sẽ không được quả
báo lớn, không được công đức lớn. Như vậy, này Ma-nạp, người
xuất gia học đạo cũng lại như thế.
“Này Ma-nạp, người sống tại gia có tai hoạn
lớn, có đấu tranh lớn, có oán ghét lớn, nhưng lại thực hành
chánh hạnh, thì sẽ được quả báo lớn, được công đức lớn. Ví như
người làm ruộng có tai hoạn lớn, có đấu tranh lớn, có oán ghét
lớn, nhưng lại thực hành chánh hạnh, thì sẽ được quả báo lớn,
được công đức lớn. Như vậy, này Ma-nạp, người sống tại gia
cũng lại như thế.
“Này Ma-nạp, người xuất gia học đạo ít có tai
hoạn, ít có đấu tranh, ít có oán ghét, nhưng lại thực hành
chánh hạnh, thì được quả báo lớn, được công đức lớn. Ví như
người buôn bán, ít có tai hoạn, ít có đấu tranh, ít có oán
ghét, nhưng lại thực hành chánh hạnh, thì sẽ được quả báo lớn,
được công đức lớn. Như vậy, này Ma-nạp, người xuất gia học đạo
lại cũng như thế.
“Này Ma-nạp, Ta nói như vậy, nói về hai pháp
ấy, phân biệt như vậy, hiển thị như vậy. Nhưng nếu có Sa-môn,
Phạm chí nào có năng lực, thâm nhập kiên cố, chấp chặt theo
một chiều, vị ấy sẽ nói rằng, ‘Đây là chân thật, ngoài ra là
hư vọng.’”
Ma-nạp Anh Vũ thưa:
“Bạch Cù-đàm, các Phạm chí kia chủ trương có
năm pháp có quả báo lớn, có công đức lớn, tạo phước, được
thiện.”
Đức Thế Tôn nói:
“Nếu các Phạm chí chủ trương có năm pháp có quả
báo lớn, có công đức lớn, tạo phước được thiện; vậy nay ngưới
có thể ở giữa đại chúng mà trình bày lại chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ thưa:
“Bạch Cù-đàm, đối với con không có sự kiện
không thể. Vì sao vậy? Vì Cù-đàm hiện đang ngồi ở giữa đại
chúng này.”
Đức Thế Tôn nói:
“Vậy ngươi hãy trình bày.”
Ma-nạp Anh Vũ thưa:
“Bạch Cù-đàm, mong Ngài khéo nghe cho. Bạch
Cù-đàm, Phạm chí chủ trương thứ nhất là pháp Chân đế, có quả
báo lớn, có công đức lớn, tạo phước được thiện; pháp thứ hai
là Tụng tập; pháp thứ ba là Nhiệt hành; pháp thứ tư là Khổ
hạnh. Bạch Cù-đàm, Phạm chí chủ trương pháp thứ năm là Phạm
hạnh[12]
có quả báo lớn, có công đức lớn, tạo phước, được thiện.”
Đức Thế Tôn nói:
“Nếu các Phạm chí chủ trương năm pháp này có
quả báo lớn, có công đức lớn, tạo phước, được thiện; vậy trong
số những Phạm chí ấy, có Phạm chí nào nói như thế này: ‘Tôi
đối với năm pháp này, ngay trong đời hiện tại, sau khi đã tự
tri, tự giác, tự tác chứng, tôi nói lên kết quả của chúng.’?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn:
“Bạch Cù-đàm, không có.”
Thế Tôn nói:
“Có vị Tôn sư hay Tổ sư nào, cho đến bảy đời
cha mẹ nói như thế này, ‘Tôi đối với năm pháp này, ngay trong
đời hiện tại, sau khi đã tự tri, tự giác, tự tác chứng, tôi
nói lên kết quả của chúng.’?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn:
“Bạch Cù-đàm, không có.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Ma-nạp, xưa kia có những Phạm chí tuổi thọ
hết, mạng chung, đã tụng trì kinh thư, đã truyền bá kinh thư,
đã tụng tập kinh điển: một là Dạ-tra, hai là Bà-ma, ba là
Bà-ma-đề-bà, bốn là Tỳ-xa-mật-đa-la, năm là Dạ-bà-đà-kiền-ni,
sáu là Ứng-nghi-la-bà, bảy là Bà-tư-tra, tám là Ca-diếp, chín
là Bà-la-bà, mười là Bà-hòa[13].
Nay các Phạm chí đối với các kinh điển ấy tụng tập, thọ trì,
học hỏi. Nhưng họ có nói như thế này: ‘Tôi đối với năm pháp
này, ngay trong đời hiện tại, sau khi đã tự tri, tự giác, tự
tác chứng, tôi nói lên kết quả của chúng.’?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn:
“Không có. Nhưng các Phạm chí ấy do tin mà thọ
trì.”
Đức Thế Tôn nói:
“Trong các Phạm chí, không có một Phạm chí nào
nói như vầy, ‘Tôi đối với năm pháp này, ngay trong đời hiện
tại, sau khi đã tự tri, tự giác, tự tác chứng, tôi nói lên kết
quả của chúng.” Và cũng không có vị Tôn sư hay Tổ sư nào, cho
đến bảy đời cha mẹ nói như thế này, ‘Tôi đối với năm pháp này,
ngay trong đời hiện tại, sau khi đã tự tri, tự giác, tự tác
chứng, tôi nói lên kết quả của chúng.’
“Xưa kia có những Phạm chí tuổi thọ hết, mạng
chung, đã tụng trì kinh thư, đã truyền bá kinh thư, đã tụng
tập điển kinh: một là Dạ-tra, hai là Bà-ma, ba là Bà-ma-đề-bà,
bốn là Tỳ-xa-mật-đa-la, năm là Dạ-bà-đà-kiền-ni, sáu là
Ứng-nghi-la-bà, bảy là Bà-tư-tra, tám là Ca-diếp, chín là
Bà-la-bà, mười là Bà-hòa. Nay các Phạm chí đối với các kinh
điển ấy, tụng tập, thọ trì, học hỏi, nhưng họ không nói như
vầy, ‘Tôi đối với năm pháp này, ngay trong đời hiện tại, sau
khi đã tự tri, tự giác, tự tác chứng, tôi nói lên kết quả của
chúng.’ Thế thì này Ma-nạp, các Phạm chí ấy há không vì sự
kiện này mà trong sự tin tưởng có thiếu căn bản chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch:
“Bạch Cù-đàm, thật sự không căn bản. Nhưng các
Phạm chí nghe rồi thọ trì.”
Đức Thế Tôn nói:
“Ví như một đám người mù dắt nhau, người trước
không thấy người ở sau, cũng không thấy người ở giữa; người
giữa không thấy người ở trước, cũng không thấy người ở sau;
người ở sau không thấy người ở giữa, cũng không thấy người ở
trước. Này Ma-nạp, Ta nói các Phạm chí cũng như vậy. Này
Ma-nạp, trước ngươi nói là do tin, sau đó ngươi nói là do
nghe.”
Ma-nạp Anh Vũ liền tức giận Đức Thế Tôn, hằn
học, không vui, phỉ báng Thế Tôn, chỉ trích Thế Tôn, mạ lỵ Thế
Tôn, và nghĩ rằng, ‘Cần phải phỉ báng Cù-đàm, cần phải chỉ
trích Cù-đàm, cần phải hạ nhục Cù-đàm.’ Liền nói với Đức Thế
Tôn:
“Này Cù-đàm, có một Phạm chí tên là
Phất-ca-sa-sa-la[14],
thuộc chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn[15],
nói như thế này: ‘Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào cho rằng mình đã
thấy, đã biết, đã chứng đắc pháp Thượng nhân[16];
sau khi nghe như vậy, Ta bèn cả cười, không thể chấp nhận
được. Đó là sự láo khoét, không chân thật, không đúng như
pháp. Làm sao con người sanh trong loài người mà tự nói là
được pháp Thượng nhân? Nếu ai nói rằng: Tôi biết, tôi thấy
pháp Thượng nhân, thì sự kiện ấy là không hợp lý.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nghĩ như thế này:
“Ma-nạp Anh Vũ, con ông Đô-đề phẫn nộ đối với Ta, hằn học,
không vui, phỉ báng Ta, chỉ trích Ta, mạ lỵ Ta, nghĩ rằng:
‘Cần phải phỉ báng Cù-đàm, cần phải chỉ trích Cù-đàm, cần phải
hạ nhục Cù-đàm.’ Liền nói với Đức Thế Tôn: ‘Này Cù-đàm, có một
Phạm chí tên là Phất-ca-sa-sa-la, thuộc chủng tánh thuộc chủng
tánh thuần khiết, không gián đoạn, nói như thế này: ‘Nếu có
Sa-môn, Phạm chí nào cho rằng mình đã thấy, đã biết, đã chứng
đắc pháp Thượng nhân; sau khi nghe như vậy, Ta bèn cả cười,
không thể chấp nhận được. Đó là sự láo khoét, không chân thật,
không đúng như pháp. Làm sao con người sanh trong loài người
mà tự nói là được pháp Thượng nhân? Nếu ai nói rằng: Tôi biết,
tôi thấy pháp Thượng nhân, thì sự kiện ấy là không hợp lý’.”
Đức Thế Tôn biết thế nên nói:
“Này Ma-nạp, có phải Phạm chí tên là
Phất-ca-sa-sa-la, thuộc chủng tánh thuần khiết, không gián
đoạn, ông ấy biết điều mong nghĩ trong tâm của hết thảy
Sa-môn, Phạm chí rồi mới nói như thế này: ‘Nếu có Sa-môn, Phạm
chí nào cho rằng mình đã thấy, đã biết, đã chứng đắc pháp
Thượng nhân; sau khi nghe như vậy, Ta bèn cả cười, không thể
chấp nhận được. Đó là sự láo khoét, không chân thật, không
đúng như pháp. Làm sao con người sanh trong loài người mà tự
nói là được pháp Thượng nhân? Nếu ai nói rằng: Tôi biết, tôi
thấy pháp Thượng nhân, thì sự kiện ấy là không hợp lýchăng?’”
Ma-nạp Anh Vũ đáp:
“Bạch Cù-đàm, Phạm chí Phất-ca-sa-sa-la, thuộc
chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn, có một nữ tỳ tên là
Bất-ni nhưng đối với tâm niệm của nữ tỳ tên là Bất-ni[17].
Nhưng đối với tâm niệm của nữ tỳ này, ông còn không thể biết,
huống nữa là biết tâm tư của tất cả Sa-môn, Phạm chí! Nếu cho
rằng ông ấy biết, thì sự kiện này không thể có.”
Thế Tôn nói:
“Cũng như người sanh ra đã mù; người ấy nói như
thế này, ‘Không có màu đen, màu trắng, cũng không thấy màu
đen, màu trắng; không có sắc tốt, sắc xấu, cũng không thấy sắc
tốt, sắc xấu; không có sắc ngắn, sắc dài, cũng không thấy sắc
ngắn, sắc dài; không có sắc gần, sắc xa, cũng không thấy sắc
gần, sắc xa; không có sắc thô, sắc tế, cũng không thấy sắc
thô, sắc tế; vì ta không bao giờ thấy, không bao giờ biết, cho
nên nói không có màu sắc.’ Người mù bẩm sinh kia nói như vậy
là đúng sự thật chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn:
“Bạch Cù-đàm, không phải vậy. Vì sao? Vì có màu
đen, màu trắng, cũng có người thấy màu đen, màu trắng; có sắc
tốt, sắc xấu, cũng có người thấy sắc tốt, sắc xấu; có sắc
ngắn, sắc dài, cũng có người thấy sắc ngắn, sắc dài; có sắc
gần, sắc xa, cũng có người thấy sắc gần, sắc xa; có sắc thô,
sắc tế, cũng có người thấy sắc thô, sắc tế. Nếu nói, ‘Tôi
không hề thấy, không hề biết, cho nên nói không có màu sắc,’
thì người mù bẩm sinh nói như vậy là không đúng sự thật.”
“Này Ma-nạp, Phạm chí Phất-ca-sa-sa-la, thuộc
chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn; lời nói của ông ấy có
khác gì hạng người mù bẩm sinh, không có mắt kia chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn:
“Bạch Cù-đàm, như mù vậy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Nếu xưa kia có
những Phạm chí, tuổi thọ hết, mạng chung, đã tụng trì kinh
thư, đã truyền bá kinh thư, đã tụng tập điển kinh[18];
đó là các Phạm chí Thương-già, Phạm chí Sanh Văn, Phạm chí
Phất-ca-sa-sa-la và Đô-đề, thân phụ ngươi[19];
những điều mà họ nói, được chấp nhận hay không được chấp nhận?
Chân thật hay không chân thật? Có cao, có thấp chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn:
“Nếu xưa kia có những Phạm chí, tuổi thọ hết,
mạng chung, đã tụng trì kinh thư, đã truyền bá kinh thư, đã
tụng tập điển kinh, đó là các Phạm chí Thương gia, Phạm chí
Sanh Văn, Phạm chí Phất-ca-sa-sa-la và Đô-đề, thân phụ con;
những điều được nói ấy; thì theo ý con, họ mong được chấp
nhận, không mong không được chấp nhận; mong là chân thật,
không mong không phải là chân thật; mong là sự cao thượng,
không mong là sự thấp hèn.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Ma-nạp, Phạm chí Phất-ca-sa-sa-la, thuộc
chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn; điều mà ông ấy nói,
há không phải là không được chấp nhận, không có sự được chấp
nhận? Là không chân thật, không có sự chân thật? Há không phải
là rất thấp hèn, không có cái gì cao?”
Ma-nạp Anh Vũ thưa Đức Thế Tôn:
“Thật vậy, bạch Cù-đàm.”
“Lại nữa, này Ma-nạp, có năm pháp gây chướng
ngại, gây che lấp, làm cho mù, không có mắt, có thể diệt mất
trí tuệ, gây ra sự nhọc nhằn vô ích, không chứng đắc Niết-bàn.
Những gì là năm? Này Ma-nạp, pháp thứ nhất là dục, gây chướng
ngại, gây che lấp, làm cho mù, không có mắt, có thể diệt mất
trí tuệ, gây ra sự nhọc nhằn vô ích, không chứng đắc Niết-bàn.
Này Ma-nạp, sân nhuế, thân kiến, giới thủ và thứ năm là nghi,
gây chướng ngại, gây che lấp làm cho mù, không có mắt, có thể
diệt mất trí tuệ, gây ra sự nhọc nhằn vô ích, không chứng đắc
Niết-bàn[20].
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Ai bị năm pháp
này làm chướng ngại, che lấp, quấn chặt, người ấy nếu muốn
quan sát ý nghĩa lợi ích của mình, ý nghĩa lợi ích của người
khác, ý nghĩa lợi ích của cả hai, và biết tất cả Sa-môn, Phạm
chí nghĩ gì trong tâm; sự kiện ấy không thể có.
“Này Ma-nạp, Phạm chí Phất-ca-sa-sa-la, thuộc
chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn, bị nhiễm bởi dục, bị
ô uế bởi dục, nhiễm dục, xúc dục, say đắm nơi dục, vào trong
dục mà không thấy tai hoạn, không biết sự xuất yếu và sống
theo dục; vị ấy bị năm pháp này chướng ngại, che lấp, quấn
chặt; vị ấy nếu muốn quán sát ý nghĩa lợi ích của mình, ý
nghĩa lợi ích của người khác, ý nghĩa lợi ích của cả hai, và
biết tất cả Sa-môn, Phạm chí nghĩ gì trong tâm; sự kiện ấy
không thể có.
“Lại nữa, này Ma-nạp, có năm công đức của dục,
khả ái, khả niệm, khả ý, khả lạc, có khát ái liên hệ sắc dục,
rất đáng ham muốn. Những gì là năm? Là sắc được thấy bởi mắt,
tiếng được nghe bởi tai, hương được ngửi bởi mũi, vị được nếm
bởi lưỡi, xúc được biết bởi thân. Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ
sao? Chúng sanh do năm công đức của dục này cho nên phát sanh
lạc, phát sanh hỷ, chẳng còn có điều gì ở ngoài đây chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Thế Tôn:
“Quả như vậy, bạch Cù-đàm.”
Thế Tôn hỏi:
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Lửa do cỏ, cây
được đốt cháy, và lửa không do cỏ, cây mà được đốt cháy; thứ
lửa nào có ngọn sáng tối thượng, tối diệu, tối thắng?”
Ma-nạp Anh Vũ thưa:
“Bạch Cù-đàm, lửa không do cỏ, cây mà được đốt
cháy; sự kiện này không thể có. Chỉ có thể có do sức mạnh của
Như ý túc. Bạch Cù-đàm, lửa không do cỏ, cây mà được đốt cháy;
lửa ấy có ngọn sáng tối thượng, tối diệu, tối thắng.”
Thế Tôn nói:
“Quả như vậy, quả như vậy! Nếu lửa không do cỏ,
cây mà được đốt cháy sự kiện này không thể có. Chỉ có do sức
mạnh của như ý túc, lửa không do cỏ cây mà được đốt cháy; thứ
lửa ấy có ngọn sáng tối thượng, tối diệu, tối thắng.
“Này Ma-nạp, ở đây Ta giả thiết rằng, cũng như
thứ lửa do cỏ cây mà được đốt cháy, sự phát sanh hỷ lạc của
chúng sanh cũng vậy, là do dục, do pháp ác, bất thiện, không
đạt được lạc do xả và tịch tĩnh. Này Ma-nạp, cũng như thứ lửa
không do cỏ, cây mà được đốt cháy; sự phát sanh xả lạc của
chúng sanh cũng vậy, là do ly dục, từ các pháp thiện, không
đạt được lạc do xả và tịch tĩnh.”
Thế Tôn lại nói:
“Này Ma-nạp, ở đây, một Phạm chí lễ trai tự,
hành bố thí, nhưng có một đồng tử Sát-lợi từ phương Đông đến
nói như vầy, ‘Ta ở trong đây được chỗ ngồi bậc nhất, nước rửa
bậc nhất, ăn uống bậc nhất.’ Nhưng vì ở đó không được chỗ ngồi
bậc nhất, nước rửa bậc nhất, nó bèn sanh oán hận, ôm lòng ganh
ghét. Hoặc từ phương Nam có đồng tử Phạm chí đến, nói như vầy,
‘Ta ở trong đây được thức ăn tịnh diệu.’ Nhưng ở đó không được
thức ăn tịnh diệu, nó bèn sanh oán hận, ôm lòng ganh ghét.
Hoặc từ phương Tây có đồng tử Cư sĩ đến nói như vầy, ‘Ta ở
trong đây được thức ăn dồi dào.’ Nhưng ở đó không được thức ăn
dồi dào, nó bèn sanh oán hận, ôm lòng ganh ghét. Hoặc từ
phương Bắc có đồng tử Công sư đến nói như vầy, ‘Ta ở trong đây
ăn no đủ.’ Nhưng ở đó không được ăn no đủ, nó bèn sanh oán
hận, ôm lòng ganh ghét. Này Ma-nạp, các vị Phạm chí ấy thực
hành sự bố thí như vậy, sẽ giả thiết những báo ứng nào?”
Ma-nạp Anh Vũ thưa:
“Bạch Cù-đàm, Phạm chí không thực hành bố thí
với tâm như vậy, khiến người khác oán hận, ôm lòng ganh ghét.
Cù-đàm nên biết, Phạm chí hành sự bố thí vì do tâm thương xót;
do tâm thương xót mà hành sự bố thí thì được đại phước.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, các Phạm chí há không phải chủ
trương pháp thứ sáu có quả báo lớn, có công đức lớn, tạo
phước, được thiện chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ đáp:
“Quả như vậy, bạch Cù-đàm.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Ma-nạp, nếu có Phạm chí chủ trương năm
pháp có quả báo lớn, có công đức lớn, tạo phước, được thiện;
thì ngươi thấy pháp ấy phần nhiều ở tại đâu? Tại gia chăng?
Xuất gia học đạo chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ đáp:
“Bạch Cù-đàm, nếu có Phạm chí chủ trương năm
pháp có quả báo lớn, có công đức lớn, tạo phước, được thiện;
thì con thấy pháp ấy phần nhiều ở sự xuất gia học đạo, chứ
không phải ở tại gia. Vì sao? Vì tại gia có nhiều công việc,
có nhiều bổn phận phải làm, có nhiều kết hận, có nhiều ganh
ghét đấu tranh, không có thể thành tựu sự thủ hộ, sự thành
thật. Bạch Cù-đàm, người xuất gia học đạo ít công việc, ít bổn
phận phải làm, ít có kết hận, ít có ganh ghét, nên có thể
thành tựu sự thủ hộ, sự thành thật.
“Bạch Cù-đàm, sự thành thật ấy con thấy phần
nhiều ở xuất gia học đạo, chứ không phải ở tại gia. Vì sao? Vì
tại gia có nhiều công việc, nhiều bổn phận phải làm, có nhiều
kết hận, có nhiều ganh ghét, đấu tranh, không được hành sự bố
thí, không được tụng tập, không được hành khổ hạnh, không được
sống Phạm hạnh. Bạch Cù-đàm, người xuất gia học đạo ít có công
việc, ít có bổn phận phải làm, ít có kết hận, ít có ganh ghét,
vị ấy có thể hành sự bố thí, có thể tụng tập, có thể hành khổ
hạnh, có thể sống Phạm hạnh.
“Bạch Cù-đàm, Người sống Phạm hạnh, con thấy
pháp phần nhiều ở xuất gia học đạo chứ không phải ở tại gia.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, nếu có Phạm chí chủ trương năm
pháp có quả báo lớn, có công đức lớn, tạo phước, được thiện,
Ta nói sự kiện ấy từ tâm mà khởi. Thế nào gọi là từ tâm mà
khởi? Nếu tâm không kết, không oán không sân nhuế, không tranh
chấp là do tu tập những pháp ấy.
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Nếu có Tỳ-kheo
thủ hộ thành thật, thì vị ấy do thủ hộ thành thật cho nên được
hỷ, được duyệt. Này Ma-nạp, nếu có hỷ và duyệt tương ưng với
thiện, Ta nói sự kiện đó từ tâm mà khởi. Thế nào gọi là từ tâm
mà khởi? Nếu tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không
tranh chấp, là do tu tập những pháp ấy. Như vậy, vị ấy, được
hành sự bố thí, được sự tụng tập, được sự hành khổ hạnh, được
sống Phạm hạnh. Vị ấy do sống Phạm hạnh cho nên được hỷ, được
duyệt.
“Này Ma-nạp, nếu có hỷ và duyệt tương ưng với
thiện, Ta nói sự kiện ấy từ tâm mà khởi. Thế nào gọi là từ tâm
mà khởi? Nếu tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không
tranh chấp, tâm ấy đi đôi với từ, biến mãn một phương, thành
tựu an trụ; cũng vậy, hai, ba, bốn phương, tứ duy, trên dưới,
bao trùm tất cả, tâm đi đôi với từ, không kết, không oán,
không sân nhuế, không tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng,
khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ; cũng
vậy, với bi và hỷ. Tâm đi đôi với xả, không kết, không oán,
không sân nhuế, không tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng,
khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ.
“Này Ma-nạp, cũng như có người khéo thổi tù và.
Nếu có phương nào chưa nghe được, người ấy vào lúc nửa đêm,
leo lên núi cao, đem hết sức thổi tù và, phát ra âm thanh vi
diệu, biến mãn cả bốn phương; cũng vậy, Tỳ-kheo tâm đi đôi với
từ, biến mãn một phương, thành tựu an trụ; cũng vậy, hai, ba,
bốn phương, tứ duy, trên dưới, bao trùm tất cả, tâm đi đôi với
từ, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh chấp,
rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn cả thế
gian, thành tựu an trụ; cũng vậy với bi và hỷ. Tâm đi đôi với
xả, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh chấp,
rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế
gian, thành tựu an trụ.
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Ở đây, có người
cầu làm Trời. Vì để sanh lên trời, nên người ấy thực hành tâm
tương ưng với tham lam, và nghĩ rằng, ‘Mong ta làm vị Trời
này, hay vị Trời khác.’ Lại có người cầu làm Trời; vì để sanh
lên trời, nên không kết, không oán, không sân nhuế, không
tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, tâm
định, ý xác quyết, biến mãn, thành tựu an trụ, và nghĩ rằng.
‘Mong ta làm vị Trời này, hay vị Trời khác.’ Ngươi xem các
người đó, ai được làm vị Trời này hay vị Trời khác?”
Ma-nạp Anh Vũ đáp:
“Bạch Cù-đàm, nếu có người cầu làm Trời; vì để
sanh lên trời, nên không kết, không oán, không sân nhuế, không
tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, tâm
định, ý xác quyết, biến thành tựu an trụ, con xem người ấy
chắc chắn được làm vị Trời này hay vị Trời khác.”
Thế Tôn hỏi:
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Nếu có người cầu
Phạm thiên. Vì để sanh lên Phạm thiên, nên thực hành tâm tương
ưng với tham lam, và nghĩ rằng, ‘Mong ta làm vị Phạm thiên
này, hay vị Phạm thiên khác.’ Ở đây, lại có người cầu Phạm
thiên. Vì để sanh lên Phạm thiên, nên không kết, không oán,
không sân nhuế, không tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng,
khéo tu tập, tâm định, ý xác quyết, biến mãn, thành tựu an
trụ, và nghĩ rằng, ‘Mong ta làm vị Phạm thiên này hay vị Phạm
thiên khác.’ Ngươi xem các người đó, ai được làm Phạm thiên
này, hay Phạm thiên khác?”
Ma-nạp Anh Vũ đáp:
“Bạch Cù-đàm, nếu người này cầu Phạm thiên, vì
để sanh lên Phạm thiên, nên không kết, không oán, không sân
nhuế, không tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu
tập, tâm định, ý xác quyết, con thấy rằng, người này chắc chắn
được làm vị Phạm thiên này, hay vị Phạm thiên khác.”
Ma-nạp Anh Vũ lại hỏi:
“Cù-đàm biết con đường dẫn đến Phạm thiên[21]
chăng?”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, nay Ta hỏi ngươi, hãy tùy theo sự
hiểu biết mà trả lời. Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Thôn
Na-la-ca-la[22]
cách chúng hội này không xa chăng?”
Ma-nạp AnhVõ đáp:
“Không xa.”
Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Ngươi nói với
một người trong chúng hội này rằng: ‘Ông hãy đến thôn
Na-la-ca-la kia. Đến đó rồi quaỷ về.’ Người ấy vâng lời ngươi,
nhanh chóng đi đến thôn Na-la-ca-la; đến đó rồi trở về. Sau
khi người ấy đi và về rồi, ngươi hỏi đường đi, hỏi sự việc đi
và về, ra và vào nơi thôn Na-la-ca-la, người ấy há lại đứng
im, không thể trả lời chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ trả lời Đức Thế Tôn:
“Không vậy, bạch Cù-đàm.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Ma-nạp, người ấy đi và về nơi thôn
Na-la-ca-la, khi được hỏi về đường đi, có thể đứng im, không
biết trả lời. Nhưng nếu hỏi Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng
Chánh Giác về con đường dẫn đến Phạm thiên thì hoàn toàn không
có sự kiện giây lát im lặng, không biết trả lời.”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Thế Tôn:
“Sa-môn Cù-đàm không chấp trước nơi sự tế tự
chư Thiên; sự kiện ấy đã trọn đủ. Bởi vì khi được hỏi về con
đường dẫn đến Phạm thiên thì Ngài có thể trả lời nhanh chóng.
“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con
đã rõ. Nay con xin tự quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Mong
Thế Tôn nhận con làm Ư-bà-tắc, kể từ hôm nay quy y cho đến lúc
mạng chung.”
Đức Phật thuyết như vậy, Ma-nạp Anh Vũ sau khi
nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán, quyển
11. Pāli, M. 99 Subhasutta.
-
[02] Bản Pāli, Phật
tại Xá-vệ: Sāvatthiya viharati.
-
[03] Anh Vũ Ma-nạp
Đô-đề Tử. Pāli: Subho māavo todeyyaputto, thanh niên Shubha,
con trai của Todeyya.
-
[04] Thiên ái.
Pāli: Devānampiya, người được Trời thương; thường dùng để
xưng hô với người ngu khờ. Bản Pāli: bhante: này ông bạn.
-
[05] Trong bản Hán:
Vô thượng Chánh tận giác.
-
[06] Bản Pāli:
Brāhmaīa bho Gotama evam āhasu, “Các người Bà-la-môn nói như
vầy...”
-
[07] Hán: tiện đắc
thiện giải, tắc tri như pháp. Pāli: ārādhako hoti ñāya
dhamma kusala, là người nhiệt tình với pháp thiện đúng chánh
lý.
-
[08] Bản Pāli:
vibhajjavādo kho aham ettha māava nāham ekasavādo, Ta thuyết
có phân tích. Ta không thuyết pháp theo một chiều.
-
[09] Pāli: mahaham
ida mahākicca mahādhikaraam mahāsamārambha
gharācāsakammahāna mahapphala hoti, sự nghiệp của người tại
gia cần nhiều kinh doanh, nhiều việc phải làm, nhiều tác vụ,
nhiều nỗ lực, do đó, có kết quả to lớn.
-
[10] Xem cht.5 ở
trên.
-
[11] Pāli: atthi
māana kammahāna mahaha mahākicca mahādhikaraam
mahāsamārambha vipajjamāna appaphala hoti, có sự nghiệp cần
nhiều kinh doanh nhiều việc phải làm, nhiều tác vụ, nhiều nỗ
lực, nhưng không làm tốt, cho nên, kết quả nhỏ. Có lẽ, trong
bản Pāli: mahākicca (nhiều nghĩa vụ), trong bản Hán đọc là
mahācicha (nhiều khó nhọc, đại tai hoạn). Pāli:
mahādhikaraa, có nghĩa: sự vụ hay tác vụ, cũng có nghĩa
tranh chấp; bản Hán hiểu theo nghĩa thứ ha (đại đấu tránh).
Pāli: samārambha, có hai nghĩa: nỗ lực (do gốc động từ
rabh); hoặc gây tổn hại (do gốc động từ radh); bản Hán hiểu
theo nghĩa sau (đại tắng oán).
-
[12] Năm pháp theo
Pāli: saccam (sự thật), tapam (khổ hành), brahmacariyam
(tiết dục hay phạm hạnh), ajjhenam (tụng đọc), cāga (thí
xả). Bản Hán thay cāga (thí xả) bằng nhiệt hành.
-
[13] Danh sách mười
đạo sĩ thời thượng cổ: Dạ-tra, Bà-ma, Bà-ma-đề-bà,
Tỳ-xa-mật-đa-la , Dạ-bà-đà-kiền-ni, Ứng-nghi-la-bà,
Bà-tư-tra, Ca-diếp, Bà-la-bà, Bà-hòa. Danh sách Pāli: Ahaka,
Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamataggi, Agīrasa, Vāseha,
Kassapa, Bhāradvājā.
-
[14]
Phất-ca-sa-sa-la; Pāli: Pokkarasāti Opamañño Subhagavaniko,
(người Bà-la-môn tên là) Pokkharasāti Opamañño, sống trong
rừng Subha.
-
[15] Hán: tánh trực
thanh tịnh hóa; chỉ thuộc một dòng họ Bà-la-môn thuần chủng,
không lai tạp trong nhiều đời liên tục.
-
[16] Nhân thượng
pháp. Pāli: uttarimanussadhamma, pháp của con người siêu
việt.
-
[17] Bất-ni. Pāli:
?
-
[18] Pāli: Kosalakā
brahmaa-mahāsārā, các Bà-la-môn phú hào ở Kosala.
-
[19] Các Bà-la-môn
Thương-già, Sanh Văn, Phất-ca-sa-sa-la và Đô-đề; Pāli: Caki,
Jānussoi, Pokkharasāti, Todeyya.
-
[20] Năm pháp
chướng ngại, bản Hán: dục, nhuế, thân kiến, giới thủ kiến và
nghi. Trong bản Pāli, pañca nīvaraā (năm triền cái):
kāmacchanda (dục vọng), vyāpāda (sân hận), thīnamiddha (hôn
trầm), uddhaccakukkucca (trạo cử), vicikicchā (nghi).
-
[21] Hán: Phạm đạo
tích. Pāli: brahmāna sahavyatāya magga, con đường dẫn đến
cộng trú với Phạm thiên.
-
[22] Na-la-ca-la
thôn. Pāli: Naakāra, thôn phụ cận Xá-vệ.