Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ sau bữa ăn trưa, các Tỳ-kheo tụ tập
ngồi tại giảng đường bàn luận thế này: “Này chư Hiền, thực
là kỳ lạ, thực là kỳ lạ! Sanh mạng con người thực quá ngắn
ngủi, phút chốc đã qua đời khác. Do đó cần phải làm các việc
lành, cần tu Phạm hạnh, vì đã sanh ra thì không thể không
chết. Nhưng người đời nay đối với việc làm đúng pháp, việc
làm hợp lẽ, việc lành, việc tốt lại không thực hành, cũng
chẳng mong cầu.”
Lúc ấy, Đức Thế Tôn đang ở tại chỗ nghỉ trưa,
bằng Thiên nhĩ thanh tịnh hơn hẳn người thường, nghe các
Tỳ-kheo sau bữa cơn trưa, tụ tập ngồi tại giảng đường, đã
bàn luận như thế này: “Chư Hiền, thực là kỳ lạ, thực là kỳ
lạ! Sanh mạng con người quá ngắn ngủi, phút chốc đã qua đời
khác. Do đó, cần phải làm các việc lành, cần tu Phạm hạnh,
vì đã sanh ra thì không thể không chết. Nhưng người đời nay
đối với việc làm đúng pháp, việc làm hợp lẽ, việc thiện,
việc tốt lại không thực hành, cũng chẳng cầu mong.” Nghe
vậy, Đức Thế Tôn, vào lúc xế trưa từ chỗ tĩnh tọa, đứng dậy,
đi đến giảng đường. Ngài trải chỗ ngồi, ngồi trước đại chúng
Tỳ-kheo và hỏi:
“Này các Tỳ-kheo, các Thầy bàn luận chuyện
gì? Vì duyên cớ nào mà tụ tập ngồi tại giảng đường?”
Nghe Đức Thế Tôn hỏi như vậy, các Tỳ-kheo
thưa:
“Bạch Thế Tôn, chúng Tỳ-kheo chúng con, sau
bữa ăn trưa, tụ tập ngồi tại giảng đường, bàn luận thế này:
‘Thực là kỳ lạ, thực là kỳ lạ! Sanh mạng con người quá ngắn
ngủi, phút chốc đã qua đời khác. Do đó, cần phải làm các
việc lành, cần tu Phạm hạnh, vì đã sanh ra thì không thể
không chết. Nhưng người đời này đối với việc làm đúng pháp,
việc làm hợp lẽ, việc lành, việc tốt lại không thực hành,
cũng chẳng cầu mong.’ Bạch Đức Thế Tôn, chúng con đã bàn
luận với nhau như vậy. Vì việc ấy, nên chúng con đã tụ tập
ngồi ở giảng đường.”
Thế Tôn tán thán:
“Lành thay! Lành thay! Khi các ngươi nói với
nhau rằng: ‘Chư Hiền, thực là kỳ lạ, thực là kỳ lạ! Sanh
mạng con người thực quá ngắn ngủi, phút chốc đã qua đời
khác. Do đó, cần phải làm các việc lành, cần tu Phạm hạnh,
vì đã sanh ra thì không thể không chết. Nhưng người đời nay
đối với việc làm đúng pháp, việc làm hợp lẽ, việc thiện,
việc tốt lại không thực hành, cũng không cầu mong.’ Vì sao?
Vì ta cũng nghĩ thế này: 'Thực là kỳ lạ, thực là kỳ lạ! Sanh
mạng con người thực quá ngắn ngủi, phút chốc đã qua đời
khác. Do đó, cần phải làm các việc lành, cần tu Phạm hạnh,
vì đã sanh ra thì không thể không chết. Nhưng ngươì đời nay
đối với việc làm đúng pháp, việc làm hợp lẽ, việc thiện,
việc tốt lại không thực hành, cũng không cầu mong?’ Vì sao?
“Này các Tỳ-kheo, vào đời quá khứ, có lúc
chúng sanh thọ tám vạn tuổi, thì châu Diêm-phù này rất giàu,
có nhiều của cải châu báu, thôn ấp gần nhau bằng khoảng cách
con gà bay. Lúc ấy, con gái đến năm trăm tuổi mới lấy chồng.
Con người chỉ có bệnh như thế này: lạnh, nóng, đại và tiểu
tiện, ham muốn, không ăn và già lão[02],
ngoài ra không còn tai hoạn nào khác.
“Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ tám vạn
tuổi, có vua tên là Câu-lao-bà[03]
làm Chuyển luân vương, thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân
chỉnh trị thiên hạ, tự do, tự tại, là pháp vương đúng như
pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu đó là luân báu, voi báu,
ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và tướng quân báu. Đó
là bảy báu. Vua có đủ một ngàn người con, dung mạo khôi ngô,
dõng mãnh, không sợ, hàng phục được kẻ khác, chắc chắn thống
trị toàn cõi đất này, cho đến biển cả, không dùng đao gậy,
chỉ dùng pháp giáo hóa, khiến dân an ổn.
“Này các Tỳ-kheo, vua Câu-lao-bà có vị Phạm
chí tên A-lan-na đại trưởng giả[04],
được cha mẹ nuôi lớn, thọ sanh thanh tịnh cho đến bảy đời
cha mẹ không tuyệt chủng tộc, đời đời không ác, học rộng,
thông suốt, tụng đọc hết bốn loại kinh điển, thấu triệt nhân
duyên, chánh văn, truyện giải trí thứ năm, và cú thuyết.
Phạm chí A-lan-na có vô lượng trăm ngàn Ma-nạp ma. Phạm chí
đã ở nơi yên tĩnh truyền dạy kinh thư cho vô lượng trăm ngàn
Ma-nạp ma.
“Bấy giờ Phạm chí A-lan-na sống một mình ở
nơi yên tĩnh, tĩnh tọa tư duy, đã suy nghĩ rằng: ‘Thực là kỳ
lạ, thực là kỳ lạ! Sanh mạng con người thực hành quá ngắn
ngủi, phút chốc đã qua đời khác. Do đó, cần phải làm các
việc thiện, cần tu Phạm hạnh, vì đã sanh ra không thể không
chết. Nhưng người đời nay đối với việc làm đúng pháp, việc
làm hợp lẽ, việc thiện, việc tốt lại không thực hành, cũng
không cầu mong. Có lẽ ta nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa,
chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học
đạo.’ Thế rồi, Phạm chí A-lan-na đi đến chỗ các Ma-nạp ma
thuộc nhiều nước khác nhau và nói:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, khi ta sống một mình
nơi chỗ yên tĩnh, tĩnh tọa tư duy, đã suy nghĩ rằng: ‘Thực
là kỳ lạ, thực là kỳ lạ! Sanh mạng con người thực quá ngắn
ngủi, phút chốc đã qua đời khác. Do đó, cần phải làm các
việc thiện cần tu Phạm hạnh, vì sanh ra không thể không
chết. Thế nhưng con người đời nay đối với việc làm đúng
pháp, việc làm hợp lẽ, việc thiện, việc tốt lại không thực
hành, cũng không mong cầu. Có lẽ ta nên cạo bỏ râu tóc, mặc
áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình xuất
gia học đạo.’ Này các Ma-nạp ma, nay ta muốn cạo bỏ râu tóc,
mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình,
xuất gia học đạo, thì các ông sẽ làm những gì?’
“Nghe vậy, các chúng Ma-nạp ma của những nước
khác nhau ấy thưa rằng:
“– ‘Thưa Tôn sư, những gì chúng con đã biết
đều nhờ ơn Tôn sư chỉ dạy, nếu Tôn sư cạo bỏ râu tóc, mặc áo
ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất
gia học đạo, thì chúng con cũng sẽ cạo bỏ râu tóc, mặc áo
ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất
gia học đạo theo gót Tôn sư.’
“Thế rồi Phạm chí A-lan-na, sau đó, đã cạo bỏ
râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình, xuất gia học đạo. Các chúng Ma-nạp ma thuộc những
nước khác ấy cũng đều cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín,
lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, theo Tôn sư là Phạm
chí A-lan-na ấy mà xuất gia học đạo. Đó là sự phát sanh danh
hiệu Tôn sư A-lan-na,và đệ tử của Tôn sư A-lan-na.
Bấy giờ, Tôn sư A-lan-na thuyết pháp cho đệ
tử:
“– Này các Ma-nạp ma, thực là kỳ lạ, thực là
kỳ lạ? Sanh mạng con người thực quá ngắn ngủi, phút chốc đã
qua đời khác. Do đó, cần phải làm các việc lành, cần tu Phạm
hạnh, vì đã sanh ra thì không thể không chết. Thế nhưng
người đời nay đối với việc làm đúng pháp, việc làm hợp lẽ,
việc thiện, việc tốt lại không thực hành, cũng không cầu
mong.”
Bấy giờ, Tôn sư A-lan-na thuyết pháp cho đệ
tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, thực là kỳ lạ, thực là
kỳ lạ! Sanh mạng con người thực quá ngắn ngủi, phút chốc đã
qua đời khác. Do đó, cần phải làm các việc lành, cần tu phạm
hạnh, vì đã sanh ra thì không thể không chết. Thế nhưng
người đời nay đối với việc làm đúng pháp, việc làm hợp lẽ,
việc thiện, việc tốt lại không thực hành, cũng không cầu
mong.’
“Lại nữa, Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho
đệ tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, giống như hạt sương
mai trên ngọn cỏ, lúc mặt trời mọc thì tan mất, tồn tại tạm
thời không thể trường cửu; cũng vậy, này Ma-nạp ma, sanh
mạng con người như hạt sương mai, rất khó giữ được, rất ít,
quá ít vị ngọt, mà đau khổ tai hoạn lại lớn, tai hoạn quá
nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na lại thuyết pháp cho đệ tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, cũng như lúc trời mưa
lớn, nước giọt tạo thành bong bóng, thoạt hiện thoạt biến;
cũng vậy, này Ma-nạp ma, mạng người cũng như bọt nước, rất
khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ tai hoạn
rất lớn, tai hoạn quá nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vây. Và Tôn sư A-lan-na lại thuyết pháp cho đệ tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, giống như cây gậy ném
xuống nước, nó sẽ trồi trở lên rất nhanh; cũng vậy, này
Ma-nạp ma, mạng người cũng như cây gậy ném xuống nước, trồi
lên rất nhanh, rất khó giữ được rất ít, quá ít vị ngọt, mà
tai hoạn, khổ đau lại lớn, tai hoạn quá nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na lại thuyết pháp cho đệ tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, giống như viên ngói
mới được nhúng vào bồn nước, rồi đem ra ngay, để ở nơi có
gió và nóng thì khô ráo liền; cũng vậy, này Ma-nạp ma, mạng
người cũng như viên ngói mới được nhúng vào bồn nước, rồi
khô ráo ngay, rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà
đau khổ tai hoạn lớn, tai hoạn quá nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na lại thuyết pháp cho đệ tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, giống như một miếng
thịt nhỏ được bỏ vào nồi nước lớn, bên dưới lửa cháy hừng
hực, sẽ tiêu tan rất nhanh; cũng vậy, này Ma-nạp ma, mạng
người cũng như miếng thịt tiêu tan kia, rất khó giữ được,
rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ, tai hoạn lại lớn, tai
hoạn rất nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na lại thuyết pháp cho đệ tử:
“–‘Này các Ma-nạp ma, giống như trói tên ăn
cướp dẫn đến dưới gốc cây nêu để giết ; mỗi bước chân đi là
một bước tiến gần chỗ chết, là một bước rời xa sự sống; cũng
vậy, này Ma-nạp ma, mạng sống con người cũng như tên cướp bị
trói dẫn đến dưới cây nêu để sát hại, rất khó giữ được, rất
ít, quá ít vị ngọt mà đau khổ, tai hoạn lại lớn, tai hoạn
quá nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na lại thuyết pháp cho đệ tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, giống như gã đồ tể dẫn
bò đi làm thịt; mỗi bước chân đi là một bước tiến gần đến
chỗ chết, là một bước rời xa sự sống; cũng vậy, này Ma-nạp
ma, mạng sống con người cũng như con bò bị dẫn đi làm thịt,
rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ, tai
hoạn lại lớn, tai hoạn quá nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na lại thuyết pháp cho đệ tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, giống như dệt vải,
thêm một hàng chỉ ngang là thêm một phần gần thành, gần
xong; cũng vậy, này Ma-nạp ma, mạng sống con người như vải
dệt gần xong, khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau
khổ, tai hoạn lại lớn, tai hoạn quá nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na thuyết pháp cho đệ tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, giống như dòng nước
trên núi đổ xiết, chảy nhanh, cuốn trôi các thứ, nước chảy
ào ạt không phút nào ngừng; cũng vậy này Ma-nạp ma, mạng
sống con người quá nhanh, không phút nào ngừng. Này Ma-nạp
ma, mạng sống con người cũng như giòng nước chảy nhanh, rất
khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ, tai hoạn
lại lớn, tai hoạn quá nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na lại thuyết pháp cho đệ tử:
“– ‘Này các Ma-nạp ma, giống như lúc đêm tối
mà liệng gậy xuống đất, hoặc đầu dưới đụng đất, hoặc đầu
trên đụng đất hoặc rơi ngay xuống đất, co khi trúng chỗ đất
sạch, có khi trúng chỗ đất không sạch; cũng vậy, này Ma-nạp
ma, chúng sanh bị vô minh phủ kín, bị ái dục cuốn chặt, hoặc
sanh vào địa ngục, sanh vào súc sanh hay loài ngạ quỷ, hoặc
sanh cõi trời, hoặc sanh cõi người. Cũng vậy, này Ma-nạp ma,
mạng sống con người như trong tối mà liệng gậy xuống đất,
rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ, tai
hoạn lại lớn, tai hoạn quá nhiều!’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na lại thuyết pháp cho các đệ tử:
“–‘Này các Ma-nạp ma, ngay đời này, nay đã
đoạn trừ tham lam, tâm không não hại; thấy của cải của kẻ
khác hay các vật dụng cần cho sự sống, ta không móng khởi
tham lam, muốn chiếm đoạt cho ta. Đối với tham tâm, ta đã
tịnh trừ; cũng vậy, đối với sân nhuế, thụy miên, điệu hối và
nghi. Ngay trong đời này, ta đã đoạn trừ nghi hoặc, đối với
các pháp thiện không còn do dự, đối với tâm nghi hoặc, ta đã
tịnh trừ. Này Ma-nạp ma, ngay trong đời này các ông cũng nên
đoạn trừ tham, tâm không não hại, thấy của cải của kẻ khác
hay các vật dụng cần cho sự sống, không nên sanh khởi tham
lam, muốn chiếm đoạt cho mình. Đối với tham tâm, các ông nên
tịnh trừ; cũng vậy, đối với sân nhuế, thụy miên, điệu hối và
nghi. Ngay trong đời này, các ông nên đoạn nghi hoặc, đối
với các pháp thiện không nên do dự.’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy. Và Tôn sư A-lan-na thuyết pháp cho đệ tử:
“–‘Này các Ma-nạp ma, tâm ta cùng với từ
tương ưng, biến mãn một phương, thành tựu an trú. Cũng vậy,
hai ba, bốn phương, bốn hướng, phương trên, phương dưới, phổ
biến cùng khắp, tâm cùng với từ tương ưng, không kết, không
oán, không sân nhuế, không tranh chấp, rộng rãi, bao la, vô
lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an
trú. Cũng vậy, bi và hỷ, tâm cùng với xả tương ưng, không
kết, không oán, không nhuế, không tranh, rộng rãi, bao la,
vô lượng, khéo tu tập biến mãn cùng khắp thế gian, thành tựu
an trú. Này Ma-nạp ma, các ông cũng nên thực hành tâm cùng
với từ tương ưng, biến mãn một phương, thành tựu an trú.
Cũng vậy, hai, ba, bốn phương, bốn hướng, phương trên,
phương dưới, phổ biến cùng khắp tâm cùng với từ tương ưng,
không kết, không oán, không nhuế, không tranh, rộng rãi, bao
la, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp thế gian, thành tựu
an trú. Cũng vậy, bi và hỷ, tâm cùng với xả tương ưng, không
kết, không oán, không nhuế, không tranh, rộng rãi bao la, vô
lượng, khéo tu tập, biến mãn cùng khắp thế gian, thành tựu
an trú.’
“Tôn sư A-lan-na đã thuyết pháp cho đệ tử như
vậy.
“ Tôn sư A-lan-na lại thuyết Phạm thế pháp[05]
cho đệ tử. Khi Tôn sư A-lan-na thuyết Phạm thế pháp cho các
đệ tử, nếu có vị nào không thực hành pháp ấy đầy đủ, thì sau
khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào Tứ thiên vương hoặc
sanh vào Tam thập tam thiên, hoặc sanh vào Diệm-ma thiên,
hoặc sanh vào Đâu-suất-đà thiên, hoặc sanh vào Hóa lạc
thiên, hoặc sanh vào Tha hóa lạc thiên. Còn lúc Tôn sư
A-lan-na thuyết Phạm thế pháp cho các đệ tử, nếu vị nào
phụng hành pháp ấy đầy đủ, tu bốn Phạm thất[06],
xả ly ái dục, thì sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được
sanh vào cõi Phạm thiên.
“Bấy giờ Tôn sư A-lan-na nghĩ rằng: ‘Đến đời
sau, ta không nên cùng với đệ tử sanh chung nơi. Vậy nay ta
nên tu tăng thượng từ. Sau khi tu tăng thượng từ, mạng chung
sẽ được sanh vào trong Hoảng dục thiên.’ Nghĩ vậy, sau đó
Tôn sư A-lan-na liền tu tăng thượng từ, sau khi tu tăng
thượng từ, mạng chung được sanh vào cõi Hoảng dục thiên. Tôn
sư A-lan-na và các đệ tử đã tu học đạo không hư đối, được
đại phước báo.
“Này các Tỳ-kheo, các ngươi nghĩ sao, Tôn sư
A-lan-na thuở xưa ấy là ai khác chăng? Chớ nghĩ như vậy. Vì
sao? Các Tỳ-kheo nên biết, vị ấy chính là Ta vậy. Bấy giờ Ta
tên là Tôn sư A-lan-na. Lúc đó Ta có vô lượng trăm ngàn đệ
tử. Ta đã thuyết Phạm thế pháp cho các đệ tử ấy. Lúc Ta
thuyết Phạm thế pháp cho các đệ tử; có người phụng hành
không đầy đủ pháp ấy, nên khi lâm chung, đã sanh vào Tứ
thiên vương, hoặc Tam thập tam thiên, hoặc Diệm-ma thiên
hoặc Đâu-suất-đà thiên, hoặc Hóa lạc thiên, hoặc Tha hóa lạc
thiên. Còn lúc Ta thuyết Phạm thế pháp cho các đệ tử; có vị
phụng hành đầy đủ pháp ấy, tu bốn Phạm thất, xả ly ái dục,
thì sau khi mạng chung, được sanh vào cõi Phạm thiên. Bấy
giờ Ta nghĩ rằng: ‘Đời sau Ta không nên cùng với các đệ tử
sanh chung một nơi. Vậy nay ta nên tu tăng thượng từ. Sau
khi tu tăng thượng từ, mạng chung sẽ được sanh vào cõi Hoảng
dục thiên.’ Ta và các đệ tử bấy giờ tu học đạo không hư dối,
được đại quả báo. Bấy giờ Ta làm lợi ích cho mình, làm lợi
ích cho kẻ khác, làm lợi ích cho mọi người. Ta thương xót
thế gian, mưu cầu thiện lợi và hữu ích, an ổn khoái lạc cho
Trời và Người. Lúc ấy, Ta thuyết pháp chưa đến chỗ rốt ráo,
chưa rốt ráo bạch tịnh, chưa rốt ráo Phạm hạnh, chưa thành
tựu rốt ráo Phạm hạnh. Bấy giờ Ta chưa xa lìa được sự sanh,
sự già, bệnh tật, sự chết, khóc lóc, áo não, cũng chưa thoát
khỏi mọi khổ đau. Này các Tỳ-kheo, nay Ta là Bậc Xuất Thế,
Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên
Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Nay Ta tự làm lợi cho mình, làm
lợi ích cho kẻ khác, làm lợi ích cho mọi người. Ta thương
xót thế gian, mưu cầu thiện lợi và hữu ích, an ổn, khoái lạc
cho Trời và Người. Nay Ta thuyết pháp đã đến chỗ rốt ráo,
rốt ráo bạch tịnh, rốt ráo Phạm hạnh, thành tựu Phạm hạnh.
Nay Ta đã xa lìa sự sanh, sự già, tật bệnh, sự chết, khóc
lóc, áo não. Nay Ta đã thoát khỏi mọi khổ đau.
“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nói đúng, thì
sẽ nói rằng: ‘Mạng sống con người ngắn ngủi, phút chốc đã
qua đời khác; do đó cần phải làm các việc lành, cần tu Phạm
hạnh, vì đã sanh ra không thể không chết.’ Này các Tỳ-kheo,
nay nói như thế là nói đúng. Vì sao? Vì nay có ai trường thọ
thì lâu lắm là một trăm tuổi, hoặc quá hơn một ít nữa mà
thôi. Nếu ai trường thọ, thì sống được ba trăm mùa, một trăm
mùa xuân, một trăm mùa hạ, một trăm mùa đông. Như vậy sống
được một ngàn hai trăm tháng; bốn trăm tháng mùa xuân, bốn
trăm tháng mùa hạ, bốn trăm tháng mùa đông. Sống một ngàn
hai trăm tháng là sống hai ngàn bốn trăm nửa tháng, tám trăm
mùa xuân, tám trăm mùa hạ, tám trăm mùa đông. Sống hai ngàn
bốn trăm nửa tháng là ba vạn sáu ngàn ngày đêm; một vạn hai
ngàn mùa xuân, một vạn hai ngàn mùa hạ, một vạn hai ngàn mùa
đông. Sống ba vạn sáu ngàn ngày đêm là bảy vạn hai ngàn lần
ăn với nghỉ ăn và bú sữa mẹ.
“Về sự nghỉ ăn[07],
đó là khổ không ăn, sân không ăn, bệnh không ăn, bận việc
không ăn, đi đường không ăn, đến chỗ nhà vua không ăn, ngày
trai không ăn, thất bại[08]
không nên ăn.
“Này các Tỳ-kheo, đó là sự sống trong một
trăm năm. Trong một trăm năm ấy với bao nhiêu mùa; với bấy
nhiêu mùa có bao nhiêu tháng, với bấy nhiêu tháng nửa tháng,
bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm, bao nhiêu ngày đêm, bao nhiêu
lần ăn, bao nhiêu lần nghỉ ăn, bao nhiêu lần ăn và nghỉ ăn.
“Này các Tỳ-kheo, như một Tôn sư khởi tâm đại
bi đoái tưởng, xót thương, mưu cầu thiện lợi ích, an ổn
khoái lạc cho đệ tử; sự kiện ấy Ta đã làm xong. Các ngươi
hãy nên làm như vậy; hãy đến nơi rừng vắng, nơi rừng sâu núi
thẳm, hay dưới gốc cây, nơi yên tĩnh an ổn mà tĩnh tọa tư
duy, không được phóng dật, luôn luôn tinh tấn, đừng để hối
hận về sau. Đó là lời khuyến giáo của Ta. Đó là huấn thị của
ta.”
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi
nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Pāli, tham
chiếu, A. 7. 70. Araka; A. 7. 69. Suneta.
-
[02] Các thứ
bịnh, kể theo bản Pāli: sīta uha jigucchā pipāsā uccāro
passavo, lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện.
-
[03] Câu-lao-bà.
Pāli: Koravya, xem kinh 132 “Lại-tra-hòa-la” ở trên.
-
[04] A-lan-na;
phiên âm gần với Aranemi trong A. 7. 69. Sunetta, được kể
chung với bảy tôn sư thời cổ, giảng dạy pháp dẫn đến cộng
trú trong thế giới Phạm thiên (brahmalokasahavya-tāya
dhamma desesi). Nhưng nội dung tư duy thì đồng nhất với
của Araka (thứ bảy trong bảy tôn sư thời cổ kể trong
Sunetta) trong A.7.70.
-
[05] Phạm thế
pháp. Pāli: brahmalokasahavyatā-dhamma, pháp dẫn đến cọng
trú với thế giới Phạm thiên.
-
[06] Bốn thất hay
bốn Phạm trú (đời sống của Phạm thiên); Pāli:
brahmavihāra.
-
[07] Pāli:
bhattantarāya, thục chướng ngại, sự gián đoạn hay cản trở
bữa ăn.
-
[08] Hán: bất đắc
giả bất thực. Pāli: alabhkēna, do không được lợi lộc nên
không ăn.