- 13. PHẨM CĂN BỔN PHÂN
BIỆT
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo, Ta sẽ thuyết pháp cho các
ngươi, phần đầu thiện, phần giữa thiện và phần cuối cũng
thiện, có nghĩa, có văn, đầy đủ thanh tịnh, hiển hiện phạm
hạnh. Đó là phân biệt về sáu xứ. các ngươi hãy lắng nghe, khéo
suy tư và ghi nhớ”.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, chúng con xin vâng lời”.
Đức Phật, bảo rằng:
“Này các thầy Tỳ-kheo, sáu xứ, nên biết, là bên
trong vậy[02];
sáu xúc xứ[03]
nên biết bên trong; mười tám ý hành[04]
nên biết bên trong; ba mươi sáu đao kiếm[05]
nên biết bên trong. Trong đó đoạn trừ cái kia, thành tựu cái
này, vô lượng thuyết pháp nên biết bên trong. Có ba ý chỉ[06],
là những điều mà bậc Thánh phải tu tập. Sau khi tu tập mới có
thể giáo hóa đồ chúng[07],
đó là bậc Vô thượng Điều ngự con người[08],
là điều ngự người thú hướng tất cả phương’. Như vậy là phân
biệt lục xứ.
“Nói rằng, ‘sáu xứ nên biết bên trong’, do nhơn
gì mà nói như thế? Đó là xứ là mắt; xứ là tai, mũi, lưỡi, thân
và ý. Nói rằng ‘sáu xứ nên biết bên trong’ là nhơn đó mà nói.
“Nói rằng ‘Sáu xúc xứ nên biết bên trong’, do
nhơn gì mà nói như vậy? Đó là xúc con mắt thì thấy sắc, xúc lỗ
tai thì nghe tiếng, xúc của mũi thì ngửi mùi, xúc của lưỡi thì
nếm vị, xúc của thân thì cảm giác, xúc bởi ý thì biết pháp.
Nói rằng ‘sáu xúc xứ nên biết bên trong’ là nhơn đó mà nói.
“Nói rằng ‘Mười tám ý hành nên biết bên trong’,
do nhơn gì mà nói như vậy? Đó là Tỳ-kheo mắt đã thấy sắc rồi
phân biệt sắc mà an trụ nơi hỷ, phân biệt các sắc mà an trụ
nơi ưu, phân biệt các sắc mà an trụ nơi xả. Cũng vậy, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý; ý đã biết pháp rồi phân biệt pháp mà an
trụ nơi hỷ, phân biệt pháp mà an trụ nơi ưu, phân biệt pháp mà
an trụ nơi xả. Đó gọi là phân biệt sáu hỷ, phân biệt sáu ưu,
phân biệt sáu xả. Tổng thuyết là mười tám ý hành. Nói rằng
‘mười tám ý hành nên biết bên trong’ là nhơn đó mà nói.
“Nói rằng ‘Ba mươi sáu loại đao kiếm nên biết
bên trong’, do nhơn gì mà nói như vậy? Có sáu hỷ y trên đắm
trước, có sáu hỷ y trên vô dục[09];
có sáu ưu y trên đắm trước, có sáu ưu y trên vô dục; có sáu xả
y trên đắm trước, có sáu xả y trên vô dục.
“Thế nào là sáu hỷ y trên đắm trước? Thế nào là
sáu hỷ y trên vô dục? Mắt thấy sắc rồi phát sanh hỷ, nên biết,
có hai loại, hoặc y trên đắm trước, hoặc y trên vô dục.
“Thế nào là hỷ y đắm trước? Sắc được biết bởi
mắt, khả hỷ, ý niệm, sắc ái, lạc tương ưng với dục[10];
cái chưa được thì muốn được, đã được thì truy ức, rồi phát
sanh hỷ. Hỷ như vậy gọi là hỷ y trên đắm trước.
“Thế nào là hỷ y trên vô dục? Biết sắc vô
thường, biến dịch, diệt tận, vô dục, tịch diệt, tịch tĩnh;
biết tất cả sắc trước kia và bây giờ đều là pháp vô thường,
khổ, hoại diệt. Truy ức như vậy rồi phát sanh hỷ. Hỷ như vậy
gọi là hỷ y trên vô dục.
“Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; ý nhận thức
pháp rồi sanh hỷ, nên biết có hai loại, hoặc y trên đắm trước,
hoặc y trên vô dục.
“Thế nào hỷ y trên đắm trước? Pháp được biết
bởi ý, khả hỷ, ý niệm, pháp ái, lạc tương ưng với dục; cái
chưa được thì muốn được, đã được thì truy ức, rồi phát sanh
hỷ. Hỷ như vậy gọi là hỷ y trên đắm trước.
“Thế nào gọi là hỷ y trên vô dục? Biết pháp là
vô thường, biến dịch, diệt tận, vô dục, tịch diệt, tịch tĩnh;
biết tất cả pháp trước kia và bây giờ đều là pháp vô thường,
khổ, hoại diệt. Truy ức như vậy rồi phát sanh hỷ. Hỷ như vậy
gọi là hỷ y trên vô dục.
“Thế nào là sáu ưu y trên đắm trước? Thế nào là
sáu ưu y trên vô dục? Mắt thấy sắc rồi phát sanh ưu, nên biết
có hai loại: hoặc y trên đắm trước, hoặc y trên vô dục.
“Thế nào là ưu y trên đắm trước? Sắc được biết
bởi mắt, khả hỷ, û ý niệm, sắc ái, lạc tương ưng với dục, cái
chưa được mà không được, đã được nhưng trong quá khứ bị phân
tán, hoại diệt, biến dịch nên sanh ưu. Ưu như vậy gọi là ưu y
trên đắm trước.
“Thế nào là ưu y trên vô dục? Biết sắc là pháp
vô thường, biến dịch, diệt tận, vô dục, tịch diệt, tịch tĩnh;
biết tất cả sắc trước kia và bây giờ đều là pháp vô thường,
khổ, pháp hoại diệt. Truy ức như vậy rồi nghĩ rằng ‘Ta lúc nào
thì thành tựu, an trú nơi xứ mà các bậc Thánh đã thành tựu, an
trú?’ Do ước nguyện chứng nhập tối thượng ấy mà lo sợ[11],
sầu khổ nên phát sanh ưu. Ưu như vậy gọi là ưu y trên vô dục.
“Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; ý nhận thức
pháp rồi sanh ưu, nên biết có hai loại: hoặc y trên đắm trước,
hoặc y trên vô dục.
“Thế nào là ưu y trên đắm trước? Pháp được biết
bởi ý, khả hỷ, niệm, pháp ái, lạc tương ưng với dục, cái chưa
được mà không được, cái đã được nhưng trong quá khứ bị phân
tán, hoại diệt, biến dịch nên sanh ưu. Ưu ấy gọi là ưu y trên
đắm trước.
“Thế nào là ưu do vô dục? Biết pháp là vô
thường, biến dịch, diệt tận, vô dục, tịch diệt, tịch tĩnh;
biết tất cả pháp trước kia và bây giờ đều vô thường, khổ, hoại
diệt. Truy ức như vậy rồi nghĩ rằng ‘Ta lúc nào thì thành tựu,
an trú vào xứ mà các bậc Thánh đã thành tựu, an trú?’ Do ước
nguyện chứng nhập tối thượng ấy mà lo sợ, sầu khổ nên phát
sanh ưu. Ưu như vậy gọi là ưu y trên vô dục.
“Thế nào là xả y trên đắm trước? Thế nào là xả
y trên vô dục? Mắt thấy sắc phát sanh xả, nên biết có hai
loại: hoặc y trên đắm trước, hoặc y trên vô dục.
“Thế nào là xả y trên đam mê? Mắt thấy sắc rồi
phát sanh xả. Phàm phu ngu si hoàn toàn[12]
không đa văn, không trí tuệ, đối với sắc có xả nhưng không
xuất ly sắc. Đó là xả y trên đam mê.
“Thế nào là xả y trên vô dục? Biết sắc vô
thường, biến dịch, diệt tận, vô dục, tịch diệt, tịch tĩnh;
biết tất cả sắc trước kia và bây giờ đều là vô thường, khổ,
hoại diệt. Truy ức như vậy rồi an trụ nơi xả. Nếu vị nào dốc
lòng tu tập xả như thế, thì đó là xả y trên vô dục.
“Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; ý nhận thức
pháp rồi phát sanh xả, nên biết rằng có hai loại: hoặc y trên
đắm trước, hoặc y trên vô dục.
“Thế nào là xả y trên đam mê? Ý nhận thức, phát
sanh xả. Phàm phu ngu si, hoàn toàn không đa văn, không trí
tuệ, đối với pháp có xả nhưng không xuất ly pháp. Đó là xả y
trên đắm.
“Thế nào là xả y trên vô dục? Ý biết pháp là vô
thường, biến dịch, diệt tận, vô dục, tịch diệt, tịch tĩnh;
biết pháp trước kia hay bây giờ đều là vô thường, khổ, hoại
diệt. Truy ức như vậy rồi an trụ nơi xả. Ai dốc lòng tu tập xả
ấy, thì đó là xả y trên vô dục.
“Đó là sáu hỷ y trên đắm trước, sáu hỷ y trên
vô dục; sáu ưu y trên đắm trước, sáu ưu y trên vô dục; sáu xả
y trên đắm trước, sáu xả y trên vô dục. Tổng thuyết là ba mươi
sáu thứ đao kiếm nên biết bên trong. Do nhơn đó mà nói như
thế.
“Nói rằng ‘Trong đó đoạn trừ cái kia, thành tựu
cái này’, do nhơn gì mà nói như vậy? Đó là, đối với sáu hỷ y
trên vô dục này, hãy thủ lấy cái này, y trên cái này, an trú
nơi cái này; còn đối với sáu hỷ y trên đắm trước ấy thì hãy
hủy diệt cái kia, đoạn trừ cái kia, nhổ cái kia ra. Như vậy là
đoạn trừ cái kia.
“Đối với sáu ưu y trên vô dục này, hãy thủ lấy
cái này, y trên cái này, an trú nơi cái này; còn đối với sáu
ưu y trên đám trước này, hãy hủy diệt cái kia, đoạn trừ cái
kia, nhổ cái kia ra. Như vậy là đoạn trừ cái kia.
“Đối với sáu xả y trên vô dục này, hãy thủ lấy
cái này, y trên cái này, an trú nơi cái này; còn đối với sáu
xả y trên đắùm trước này, hãy hủy diệt cái kia, đoạn trừ cái
kia, nhổ cái kia ra. Như vậy là đoạn trừ cái kia.
“Có loại xả có vô lượng xúc, sai biệt xúc[13];
có loại xả chỉ có một xúc, không sai biệt xúc.
“Thế nào là xả có vô lượng xúc, sai biệt xúc?
Nếu xả đối với sắc, đối với thanh, đối với hương, đối với vị,
đối với xúc, thì xả ấy có vô lượng xúc, sai biệt xúc.
“Thế nào xả chỉ có một xúc, không sai biệt xúc?
Là xả hoặc y vào vô lượng không xứ, hoặc y vào vô lượng thức
xứ, hoặc y vào vô sở hữu xứ, hoặc y vào phi hữu tưởng phi vô
tưởng xứ, thì xả ấy chỉ có một xúc, không sai biệt xúc.
“Đối với xả có một xúc, không sai biệt xúc, hãy
thủ lấy cái này, y trên cái này, an trú nơi cái này. Đối với
xả có vô lượng xúc, sai biệt xúc, hãy hủy diệt cái kia, đoạn
trừ cái kia, nhổ cái kia ra. Như vậy là đoạn trừ cái kia. Thủ
vô lượng, y vô lượng, trú vô lượng, tức là đối với xả có một
xúc, không sai biệt xúc, hãy thủ lấy cái này, y trên cái này,
an trú nơi cái này. Đối với xả có vô lượng xúc, sai biệt xúc,
hãy hủy diệt cái kia, đoạn trừ cái kia, nhổ cái kia ra. Như
vậy là đoạn trừ cái kia.
“Nói rằng ‘Trong đó đoạn trừ cái kia, thành tựu
cái này’ là nhơn đó mà nói.
“Nói rằng ‘Vô lượng thuyết pháp nên biết bên
trong’, do nhơn gì mà nói như thế?
“Như Lai có bốn đệ tử, có tăng thượng hành,
tăng thượng ý, tăng thượng niệm, tăng thượng tuệ, có biện tài,
thành tựu biện tài bậc nhất, thọ đến một trăm tuổi. Như Lai
thuyết pháp cho đệ tử ấy suốt cả một trăm năm, ngoại trừ lúc
ăn lúc uống, lúc đại tiểu tiện, lúc ngủ nghỉ và lúc tụ hội;
những pháp mà Như Lai thuyết kia, có văn cú, pháp cú, quán
nghĩa, bằng tuệ mà quán nghĩa một cách nhanh chóng, không có
hỏi lại Như Lai về pháp nữa. Vì sao? Vì pháp được Như Lai
giảng thuyết không có giới hạn, không thể cùng tận, có văn cú,
pháp cú, quán nghĩa, cho đến lúc bốn đệ tử lâm chung.
“Cũng như bốn hạng người bắn giỏi, cùng kéo
mạnh dây cung mà bắn một lượt, khéo học kỹ, khéo biết rõ. Cũng
vậy, Thế Tôn có bốn đệ tử, có tăng thượng hành, tăng thượng ý,
tăng thượng niệm, tăng thượng tuệ, có biện tài, thành tựu biện
tài bậc nhất, thọ đến một trăm tuổi. Như Lai thuyết pháp cho
đệ tử ấy suốt cả một trăm năm, ngoại trừ lúc ăn lúc uống, lúc
đại tiểu tiện, lúc ngủ nghỉ và lúc tụ hội; những pháp mà Như
Lai thuyết kia, có văn cú, pháp cú, quán nghĩa, bằng tuệ mà
quán nghĩa một cách nhanh chóng, không có hỏi lại Như Lai về
pháp nữa. Vì sao? Vì pháp được Như Lai giảng thuyết không có
giới hạn, không thể cùng tận.
“Nói rằng ‘Vô lượng thuyết pháp nên biết bên
trong’, là nhơn đó mà nói.
“Nói rằng ‘Có ba ý chỉ, là những điều mà bậc
Thánh phải tu tập. Sau khi tu tập mới có thể giáo hóa đồ
chúng’, do nhơn gì mà nói như thế?
“Như Lai thuyết pháp cho đệ tử là vì mến yêu,
mưu cầu nhiều thiện lợi và hữu ích, an ổn và khoái lạc, phát
khởi tâm từ bi, bảo rằng ‘Đây là lợi ích, đây là khoái lạc,
đây là lợi ích khoái lạc’. Nếu các đệ tử kia mà không cung
kính, không thuận hành, không xác lập nơi trí, tâm không thực
hành pháp và tùy pháp[14],
không thọ chánh pháp, làm trái lời Thế Tôn, không thể đắc
định; nhưng Thế Tôn không vì thế mà buồn rầu. Thế Tôn chỉ xả
mà không làm gì, thường chánh niệm, chánh trí. Đó là ý chỉ thứ
nhất mà bậc Thánh tu tập. Sau khi đã tu tập mới có thể giáo
hóa đồ chúng.
“Lại nữa, Như Lai thuyết pháp cho đệ tử vì
thương tưởng mến yêu, vì mưu cầu thiện lợi hữu ích, an ổn và
khoái lạc, phát khởi tâm từ bi, nói rằng ‘Đây là hữu ích, đây
là khoái lạc, đây là hữu ích khoái lạc’. Nếu đệ tử kia cung
kính thực hành theo chánh trí, tâm thực hành pháp và tùy pháp,
thọ trì chánh pháp, không trái lời Thế Tôn, đắc định, thì Thế
Tôn cũng không vì thế mà hoan hỷ. Thế Tôn chỉ xả, mà không làm
gì cả, thường chánh niệm, chánh trí. Đó là ý chỉ thứ hai mà
bậc Thánh tu tập. Sau khi đã tu tập mới có thể giáo hóa đồ
chúng.
“Lại nữa, Như Lai thuyết pháp cho đệ tử vì
thương tưởng mến yêu, vì mưu cầu thiện lợi hữu ích, an ổn và
khoái lạc, phát khởi tâm từ bi, bảo rằng ‘Đây là hữu ích, đây
là khoái lạc, đây là hữu ích khoái lạc’. Nhưng có đệ tử không
cung kính, cũng không thực hành, không vững chánh trí, tâm
không hướng đến pháp tùy pháp hành, không thọ trì chánh pháp,
trái lời Thế Tôn, không thể đắc pháp. Trái lại, có đệ tử cung
kính, thực hành, vững chánh trí, tâm quy hướng đến pháp tùy
pháp hành, thọ trì chánh pháp, không trái lời Thế Tôn, đắc
định, Thế Tôn cũng không vì thế mà buồn rầu hay hoan hỷ. Thế
Tôn chỉ xả, mà không làm gì cả, thường chánh niệm, chánh trí.
Đó là ý chỉ thứ ba mà bậc Thánh tu tập. Sau khi đã tu tập mới
có thể giáo hóa đồ chúng.
“Nói rằng ‘Có ba ý chỉ, là những điều mà bậc
Thánh phải tu tập. Sau khi tu tập mới có thể giáo hóa đồ
chúng’, là nhơn đó mà nói.
“Nói rằng ‘Bậc Vô Thượng điều ngự con người, là
điều ngự người thú hướng tất cả phương’, do nhơn gì mà nói như
vậy?
“Điều ngự con người, đó là nói điều ngự con
người chỉ thú hướng một phương, hoặc phương Đông, hoặc phương
Nam, hoặc phương Tây, hoặc phương Bắc. Chẳng hạn như điều ngự
voi, là vị điều ngự chỉ dẫn con voi đến một phương, hoặc
phương Đông, hoặc phương Nam, phương Tây, phương Bắc. Điều ngự
ngựa là vị điều ngự chỉ dẫn con ngựa đến một phương, hoặc
phương Đông, hoặc phương Nam, phương Tây, phương Bắc. Điều ngự
bò là vị điều ngự chỉ dẫn con bò đến một phương, hoặc phương
Đông, hoặc phương Nam, phương Tây, phương Bắc. Trái lại, Vô
thượng Điều ngự con người thú hướng đến tất cả phương. Trong
đó, phương là có sắc thì quán sắc, đó là phương thứ nhất[15].
Bên trong không có sắc tưởng, bên ngoài quán sắc, đó là phương
thứ hai. Tịnh giải thoát, thân chứng thành tựu, an trú, đó là
phương thứ ba. Vượt qua mọi sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng,
không nghĩ đến các loại tưởng sai biệt, nhập vô lượng hư
không, thành tựu và an trú vô lượng không xứ, đó là phương thứ
tư. Vượt qua mọi vô lượng không xứ, nhập vô lượng thức, thành
tựu an trú vô lượng thức xứ, đó là phương thứ năm. Vượt qua
mọi vô lượng thức xứ, nhập vô sở hữu, thành tựu và an trú vô
sở hữu xứ, đó là phương thứ sáu. Vượt qua mọi vô sở hữu xứ,
nhập phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trú, đó là
phương thứ bảy. Vượt qua mọi phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ,
tưởng và thọ đã diệt tận, thân chứng thành tựu, an trú, do tuệ
mà quán lậu tận, vĩnh viễn đoạn trừ, đó là phương thứ tám.
“Nói rằng ‘Bậc Vô Thượng điều ngự con người, là
điều ngự người thú hướng tất cả phương’ là nhơn đó mà nói”.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M.137, Salāyatana-vibhaga-sutta.
-
[02] Hán: lục xứ
đương tri nội dã. Pāli: ajjhattikāni āyatanāni veditabbāni,
sáu nội xứ cần được biết.
-
[03] Lục cánh lạc
xứ. Pāli: cha phassakayā.
-
[04] Thập bát ý
hành. Pāli: ahādasa manopavicārā. Xem cht.11, kinh 62.
-
[05] Tam thập lục
đao. Pāli: chattisa sattapadā, 36 cú (phạm trù), hay dấu
chân, của chúng sanh; 36 loại chúng sanh. Trong bản Hán, đọc
là sattha (đao kiếm) thay vì satta (hữu tình). Tỳ-bà-sa
(No.1545, Đại 27, trang 718 a): Tam thập lục sư cú. Pāli:
Sattapadā (36 cú nghĩa, hay phạm trù, về chúng sanh). Cả ba
bản đọc theo ngữ nguyên khác nhau. Pāli: satta, chúng sanh.
Bản Hán này, đao kiếm: do Skt. Śastra (Pāli: sattha),
Tỳ-bà-sa; Skt. Śāstra: đạo sư (Pāli: sattha).
-
[06] Tam ý chỉ.
Pāli: tayo satipahānā, ba niệm trú.
-
[07] Tham chiếu
Pāli: tatr’ida nissāya ida pajahatha. tayo satipahānā yad
ariyo sevati, yad ariyo sevannāno satthā gaa anusāsitu
arahati, “trong đây, y trên cái này, các ngươi hãy đoạn trừ
cái này; có ba niệm trụ mà bậc Thánh tập hành, và khi tập
hành nó bậc Thánh xứng đáng là Đạo sư giáo huấn đồ chúng”.
-
[08] Hán: điều ngự
sĩ, chế ngự hay huấn luyện con người và đánh xe đưa con
người đến chỗ an ổn. Pāli: so vuccati yoggācariyāna anuttaro
purisadammasārathī ti, vị ấy được gọi là vị hướng đạo và
huấn luyện con người, cao cả nhất trong tất cả những người
đánh xe.
-
[09] Y trước y vô
dục. Tỳ-bà-sa (đd., như trên): Y đam thị y xuất ly. Pāli:
gehaseta, nekkhammasita: y tại gia và y xuất gia. Do từ
nguyên trong Skt. hay đồng âm của từ gaha (Pāli) có nghĩa là
nhà (Skt. gha) và sự nắm chặt (Skt. graha) nên có những
nghĩa khác nhau như thế.
-
[10] Pāli:
lokāmisapaisayutta, liên hệ đến vật dục thế gian.
-
[11] Hán: thượng cụ
xúc nguyện khủng bố; không hiểu ý. Pāli: anuttaresu
vimokkhesu piha upahāyato uppajjati, khởi lên ước muốn đối
với các giải thoát vô thượng.
-
[12] Hán: bình
đẳng, liên hệ từ sam (Pāli, hay Skt.).
-
[13] Pāli: atthi
bhikkhave upekhā nānattā nānattasitā, có xả là tạp đa tánh,
y trên tạp đa tánh.
-
[14] Thú hướng pháp
thứ pháp, tức Pāli: dhammānudhamma-paipanna, thực hành pháp
và những liên hệ pháp.
-
[15] Từ đây trở
xuống, nói về tám giải thoát, cũng nói là tam bối. Xem giải
thích Tập Dị 18, Đại 16, trang 443.