- 13. PHẨM CĂN BỔN PHÂN
BIỆT
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá,
trú trong Trúc lâm, vườn Ca-lan-đà.
Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề[02]
cũng trú ở thành Vương xá, trong thiền thất Vô sự. Lúc ấy, dị
học Bộ-la-đà Tử[03]
sau giờ trưa, ung dung đi đến chỗ Tôn giả Tam-di-đề, cùng chào
hỏi rồi lui ngồi xuống một bên và hỏi:
“Này Hiền giả Tam-di-đề, tôi có điều muốn hỏi,
ngài cho phép chăng?”
Tôn giả Tam-di-đề đáp:
“Hiền giả Bộ-la-đà Tử, muốn hỏi cứ hỏi. Tôi
nghe xong sẽ suy nghĩ”.
Dị học Bộ-la-đà Tử bèn hỏi:
“Này Hiền giả Tam-di-đề, tôi trực tiếp nghe từ
Sa-môn Cù-đàm, tôi trực tiếp nhận từ Sa-môn Cù-đàm, rằng ‘Thân
nghiệp, khẩu nghiệp là hư vọng. Chỉ có ý nghiệp là chơn thật.
Có một loại định, Tỳ-kheo vào định đó không còn hay biết gì’”.
Tôn giả Tam-di-đề đáp:
“Hiền giả Bộ-la-đà Tử, chớ có nói như vậy, chớ
có hủy báng Đức Thế Tôn. Hủy báng Thế Tôn là bất thiện. Thế
Tôn không nói như vậy.
“Hiền giả Bộ-la-đà Tử, Đức Thế Tôn đã dùng vô
số phương tiện nói rằng ‘Nếu cố ý tạo tác nghiệp[04],
khi tác đã thành, Ta nói không có việc không thọ báo, hoặc
hiện tại thọ báo, hoặc đời sau thọ báo. Nếu không cố ý tạo tác
nghiệp, khi tác đã thành, Ta không nói chắc chắn phải thọ
báo’”.
Dị học Bộ-la-đà Tử ba lần nhắc lại câu ấy với
Tôn giả Tam-di-đề rằng:
“Này Hiền giả Tam-di-đề, tôi trực tiếp nghe từ
Sa-môn Cù-đàm, tôi trực tiếp nhận từ Sa-môn Cù-đàm, rằng ‘Thân
nghiệp, khẩu nghiệp là hư vọng. Chỉ có ý nghiệp là chơn thật.
Có một loại định, Tỳ-kheo vào định đó không còn hay biết gì’.”
Tôn giả Tam-di-đề cũng ba lần đáp:
“Hiền giả Bộ-la-đà Tử, chớ có nói như vậy, chó
có hủy báng Đức Thế Tôn. Hủy báng Thế Tôn là bất thiện. Thế
Tôn không nói như vậy.
“Hiền giả Bộ-la-đà Tử, Đức Thế Tôn đã dùng vô
số phương tiện nói rằng ‘Nếu cố ý tạo tác nghiệp, khi tác đã
thành, Ta nói không có việc không thọ báo, hoặc hiện tại thọ
báo, hoặc đời sau thọ báo. Nếu không cố ý tạo tác nghiệp, khi
tác đã thành, Ta không nói chắc chắn phải thọ báo’”.
Dị học Bộ-la-đà Tử hỏi Tôn giả Tam-di-đề:
“Nếu cố ý tạo tác nghiệp, khi tác nghiệp đã
thành, phải thọ báo gì?”
Tôn giả Tam-di-đề đáp:
“Hiền giả Bộ-la-đà Tử, nếu cố ý tạo tác nghiệp,
khi tác nghiệp đã thành, tất thọ báo khổ”.
Dị học Bộ-la-đà Tử lại hỏi:
“Này Hiền giả Tam-di-đề, ông học đạo trong pháp
luật này bao lâu rồi?”
Tôn giả Tam-di-đề đáp rằng:
“Hiền giả Bộ-la-đà Tử, tôi học đạo trong pháp
luật này mới có ba năm”.
Lúc ấy, dị học Bộ-la-đà Tử bèn suy nghĩ rằng:
“Tỳ-kheo niên thiếu mà vẫn có thể bảo hộ Tôn sư như vậy, huống
nữa là vị Thượng tọa cựu học.”
Rồi thì dị học Bộ-la-đà Tử nghe Tôn giả
Tam-di-đề nói, không cho là phải, cũng không cho là quấy, rời
chỗ ngồi, lắc đầu mà đi.
Lúc bấy giờ Tôn giả Đại Châu-na[05],
đang ở cách chỗ nghỉ ngày của Tôn giả Tam-di-đề không xa. Tôn
giả Đại Châu-na nghe cuộc đối thoại giữa Tôn giả Tam-di-đề và
dị học Bộ-la-đà Tử, ghi nhớ tất cả, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy
đi đến Tôn giả A-nan, cùng chào hỏi xong rồi ngồi xuống một
bên và mang những lời đối thoại giữa Tôn giả Tam-di-đề và dị
học Bộ-la-đà Tử thuật lại hết cho Tôn giả A-nan nghe.
Tôn giả A-nan nghe xong bảo rằng:
“Này Hiền giả Châu-na, nhơn câu chuyện này,
chúng ta nên đến gặp Đức Phật và trình bày lên Thế Tôn. Hiền
giả Châu-na, chúng ta hãy cùng đến nơi Thế Tôn và bạch lên Thế
Tôn tất cả nghĩa này. Hoặc nhơn đây, chúng ta được nghe những
pháp nào khác của Thế Tôn”.
Rồi Tôn giả A-nan và Tôn giả Đại Châu-na cùng
đi đến chỗ Phật. Tôn giả Đại Châu-na cúi đầu đảnh lễ sát chân
Phật, rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả A-nan cúi đầu làm lễ sát
chân Phật rồi đứng qua một bên.
Lúc đó, Tôn giả A-nan nói rằng:
“Này Hiền giả Châu-na, Hiền giả nên nói đi!
Hiền giả nên nói đi!”
Bấy giờ Thế Tôn hỏi:
“Này A-nan, Tỳ-kheo Châu-na muốn nói sự gì?”
Tôn giả A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sẽ tự nghe hết câu
chuyện”.
“Rôi thì Tôn giả Đại Châu-na thuật lại đầu đuôi
cuộc đối thoại giữa Tôn giả Tam-di-đề và dị học Bộ-la-đà Tử
cho Phật nghe. Nghe xong, Thế Tôn bảo rằng:
“Này A-nan, hãy xem Tỳ-kheo Tam-di-đề người si,
không đạo lý gì. Vì sao? Vấn đề dị Bộ-la-đà Tử hỏi là bất định[06]
mà Tỳ-kheo Tam-di-đề, người ngu si kia chỉ trả lời theo nhất
hướng đáp[07].”
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, nếu Tỳ-kheo Tam-di-đề nhơn việc
này trả lời rằng ‘Nhữøng gì được cảm thọ đều là khổ’ thì có
lỗi gì?”
Đức Thế Tôn quở Tôn giả A-nan:
“Hãy xem Tỳ-kheo A-nan cũng không có đạo lý gì
cả. A-nan, kẻ ngu si Tam-di-đề này, dị học Bộ-la-đà Tử kia hỏi
tất cả ba cảm thọ, khổ thọ, lạc thọ và không khổ không lạc
thọ. A-nan, nếu kẻ ngu si Tam-di-đề được dị học Bộ-la-đà Tử
hỏi, nên đáp như vầy, ‘Này Hiền giả Bộ-la-đà Tử, nếu cố ý tạo
nghiệp an lạc, khi tác đã thành sẽ thọ quả báo an lạc. Nếu cố
ý tạo nghiệp khổ, khi tác đã thành, sẽ thọ quả báo khổ. Nếu cố
ý tạo nghiệp không khổ không lạc, khi tác đã thành rồi sẽ thọ
quả báo không khổ không lạc’. Này A-nan, nếu kẻ ngu si
Tam-di-đề được dị học Bộ-la-đà Tử hỏi và đáp như vậy thì dị
học Bộ-la-đà Tử mắt còn không dám nhìn Tam-di-đề ngu si ấy,
huống nữa lại có thể hỏi đến chuyện như vậy chăng?
“Này A-nan, nếu ngươi từ Thế Tôn mà nghe kinh
‘Phân biệt đại nghiệp’, thì đối với Như Lai lại càng tăng
thượng tâm tĩnh, được hoan hỷ”.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan chấp tay hướng về Phật,
bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, nay thật đúng lúc. Bạch Thiện
Thệ, nay thật đúng lúc. Nếu Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói kinh
‘Phân Biệt Đại Nghiệp’, các Tỳ-kheo nghe xong sẽ ghi nhớ kỹ”.
Thế Tôn bảo:
“Này A-nan, hãy lắng nghe, hãy suy nghĩ kỹ, Ta
sẽ phân biệt đầy đủ cho ngươi nghe”.
Tôn giả A-nan thưa:
“Kính vâng, bạch Thế Tôn”.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời dạy, lắng nghe.
Phật nói:
“Này A-nan, hoặc có một người không từ bỏ sát
sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không
từ bỏ nói dối,... cho đến không từ bỏ tà kiến. Với sự không xả
ly, không thủ hộ này, thân hoại mạng chung sanh về chỗ lành,
sanh lên trời. Này A-nan, hoặc có một người từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ
bỏ tà kiến. Với sự xả ly, sự thủ hộ này, thân hoại mạng chung
sanh về chỗ ác, trong địa ngục.
“Này A-nan, hoặc có một người không từ bỏ sát
sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không
từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến. Với sự không xả
ly, không thủ hộ này, thân hoại mạng chung sanh về chỗ ác,
trong địa ngục. Này A-nan, hoặc có một người từ bỏ sát sanh,
từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến
từ bỏ tà kiến. Với sự xả ly và thủ hộ này, thân hoại mạng
chung sanh về chốn lành, trong cõi trời.
“Này A-nan, nếu có một người không từ bỏ sát
sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không
từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không xả
ly, không thủ hộ này, thân hoại mạng chung, người ấy sanh về
chốn lành, trong cõi trời. Nếu có vị Sa-môn, Phạm chí chứng
được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn mà thấy người kia, thấy
rồi bèn tự suy nghĩ rằng, ‘Không có thân ác hành, cũng không
có quả báo của thân ác hành. Không có khẩu và ý ác hành, cũng
không có quả báo của khẩu và ý ác hành. Vì sao? Ta thấy người
kia không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ sự lấy của không cho,
không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ
tà kiến; với sự không xả ly, không thủ hộ này, thân hoại mạng
chung sanh về cõi lành, trong cõi trời. Nếu có những trường
hợp khác cũng tương tự như vậy, không từ bỏ sát sanh, không từ
bỏ không cho mà lấy, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối,
cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không xả ly, không thủ hộ
này, kia tất cả khi thân hoại mạng chung nhất định sanh về cõi
lành, trong cõi trời. Ai thấy như vậy gọi là chánh kiến. Ai
thấy khác đi, trí họ đi về nẻo tà’. Bất cứ sở tri và sở kiến
nào được cực lực mò mẫm, dều chủ trương theo một chiều rằng
‘Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối’.
“Này A-nan, nếu có một người từ bỏ sát sanh, từ
bỏ không cho mà lấy, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ
bỏ tà kiến; với sự xả ly, thủ hộ này, thân hoại mạng chung
sanh về chốn ác, sanh trong địa ngục. Nếu có Sa-môn, Phạm chí
chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn mà thấy người kia,
thấy rồi bèn tự suy nghĩ rằng: “Không có thân diệu hạnh, không
có quả báo của thân diệu hạnh, không có khẩu và ý diệu hạnh,
cũng không có quả báo của khẩu và ý diệu hạnh’. Vì sao? Ta
thấy người kia từ bỏ sát sanh, từ bỏ sự lấy của không cho từ
bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự
xả ly thủ hộ này, thân hoại mạng chung sanh về chốn ác, sanh
trong địa ngục. Nếu có những trường hợp khác cũng tương tự như
vậy, từ bỏ sát sanh, từ bỏ không cho mà lấy, từ bỏ tà dâm, từ
bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự xả ly, thủ hộ này,
kia tất cả khi thân hoại mạng chung nhất định sanh về chốn ác,
sanh trong địa ngục. Ai thấy như vậy gọi là chánh kiến. Ai
thấy khác đi, trí họ đi về nẻo tà’. Bất cứ sở tri và sở kiến
nào được cực lực mò mẫm, đều chủ trương theo một chiều rằng
‘Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối’.
“Này A-nan, nếu có một người không từ bỏ sát
sanh, không từ bỏ không cho mà lấy, không từ bỏ tà dâm, không
từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không xả
ly, không thủ hộ này, thân hoại mạng chung sanh về chốn ác,
sanh trong địa ngục. Nếu có Sa-môn, Phạm chí chứng được thiên
nhãn, thành tựu thiên nhãn mà thấy người kia, thấy rồi bèn tự
suy nghĩ: ‘Có thân ác hạnh, có quả báo của thân ác hạnh, có
khẩu và ý ác hạnh, cũng không có quả báo của khẩu và ý ác
hạnh’. Vì sao? Ta thấy kẻ kia không từ bỏ sát sanh, không từ
bỏ không cho mà lấy, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối,
cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không xả ly, không thủ hộ
này, kia tất cả khi thân hoại mạng chung nhất định sanh về
chốn ác, sanh trong địa ngục. Ai thấy như vậy gọi là chánh
kiến; thấy khác đi, trí họ đi về nẻo tà’. Bất cứ sở tri và sở
kiến nào được cực lực mò mẫm, đều chủ trương theo một chiều
rằng: ‘Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối.’
“Này A-nan, nếu có một người từ bỏ sát sanh,
từ bỏ không cho mà lấy, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến
từ bỏ tà kiến. Với sự xả ly, thủ hộ này, thân hoại mạng chung
sanh về chốn lành, sanh trong cõi trời. Nếu có Sa-môn, Phạm
chí chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn mà thấy người
kia, thấy rồi bèn tự suy nghĩ: ‘Có thân diệu hạnh, cũng có quả
báo của thân diệu hạnh; có khẩu và ý diệu hạnh, cũng có quả
báo của khẩu và ý diệu hạnh. Vì sao? Ta thấy kẻ kia từ bỏ sát
sanh, từ bỏ không cho mà lấy, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho
đến từ bỏ tà kiến; với sự xả ly, thủ hộ này, khi thân hoại
mạng chung nhất định sanh về chốn lành, sanh trong cõi trời.
Nếu lại có trường hợp khác tương tợ như vậy, từ bỏ sát sanh,
từ bỏ không cho mà lấy, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến
từ bỏ tà kiến; với sự xả ly, thủ hộ này, tất cả những người ấy
khi thân hoại mạng chung nhất định sẽ sanh về nẻo lành, sanh
trong cõi trời. Ai thấy như vậy gọi là chánh kiến; thấy khác
đi, trí họ đi về nẻo tà’. Bất cứ sở tri và sở kiến nào được
cực lực mò mẫm, chủ trương theo một chiều rằng: ‘Đây mới là
chân thật, ngoài ra đều hư dối’.
“Này A-nan, ở trong đó, nếu vị Sa-môn, Phạm chí
chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, nói như thế này,
‘Không có thân ác hành, không có quả báo của thân ác hành.
Không có khẩu, ý ác hành, không có quả báo của khẩu và ý ác
hành’. Ta không theo vị ấy. Nếu vị ấy nói như thế này, ‘Ta
thấy người kia không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ không cho mà
lấy, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ
bỏ tà kiến; với sự không xả ly, không thủ hộ này, thân hoại
mạng chung sanh về chốn ác, sanh trong địa ngục’. Ta nghe theo
vị ấy. Nếu nói như vầy, ‘Nếu có những trường hợp khác tương tợ
như vậy, không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ không cho mà lấy,
không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ
tà kiến; với sự không xả ly, không thủ hộ này, tất cả những
người ấy khi thân hoại mạng chung sanh về chỗ lành, sanh lên
trời’. Ta không nghe theo vị ấy. Nếu có ai nói như vầy, ‘Thấy
như vậy mới là chánh kiến, thấy khác là kẻ có trí tà’. Ta
không nghe theo họ. Bất cứ sở tri và sở kiến nào được cực lực
mò mẫm, chủ trương theo một chiều rằng ‘Đây mới là chân thật,
ngoài ra đều hư dối.’ Ta cũng không nghe họ. Vì sao? Này
A-nan, Như Lai biết những người đó là trường hợp khác.
“Này A-nan, trong đó có Sa-môn, Phạm chí chứng
được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, nói thế này, ‘Không có
thân diệu hạnh, cũng không có quả báo của thân diệu hạnh;
không có khẩu, ý diệu hạnh, cũng không có quả báo của khẩu và
ý diệu hạnh’. Ta không nghe theo vị ấy. Nếu nói thế này, ‘Ta
thấy người kia từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ
tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến. Với sự xả ly,
thủ hộ này, thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, sanh trong
địa ngục’. Ta nghe theo[08]
vị ấy. Nếu có ai nói thế này, ‘Có những trường hợp khác tương
tợ như vầy, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà
dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự xả ly, thủ
hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng chung sanh về
nẻo ác, sanh trong địa ngục’. Ta không nghe theo họ[09].
Nếu kia lại nói thế này, ‘Thấy như vậy mới là chánh kiến, thấy
khác là kẻ có trí tà’. Ta cũng không nghe họ. Bất cứ sở tri và
sở kiến nào được cực lực mò mẫm, chủ trương theo một chiều
rằng ‘Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối.’ Ta cũng
không nghe họ. Vì sao? Này A-nan, Như Lai biết những người đó
là trường hợp khác.
“Này A-nan, trong đó nếu có Sa-môn, Phạm chí
chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, nói như vầy, ‘Có
thân ác hạnh, cũng có quả báo của thân ác hạnh. Có khẩu, ý ác
hạnh, cũng có quả báo của khẩu và ý ác hạnh’. Ta nghe theo vị
ấy. Nếu kia nói như thế này, ‘Ta thấy người kia không từ bỏ
sát sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm,
không từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến. Với sự không
xả ly, không thủ hộ này, thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác,
sanh trong địa ngục’. Ta nghe theo vị ấy. Nếu nói thế này,
‘Những trường hợp tương tợ như vậy, không từ bỏ sát sanh,
không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ
nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không xả ly,
không thủ hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng
chung sanh về nẻo ác, sanh trong địa ngục’. Ta không nghe theo
họ. Nếu kia lại nói thế này, ‘Thấy như vậy mới là chánh kiến,
thấy khác là kẻ có trí tà’. Ta cũng không nghe họ. Bất cứ sở
tri và sở kiến nào được cực lực mò mẫm, chủ trương theo một
chiều rằng ‘Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối’. Ta
cũng không nghe họ. Vì sao? Này A-nan, Như Lai biết những
người đó là trường hợp khác.
“Này A-nan, trong đó nếu có Sa-môn, Phạm chí
chứng được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, nói như thế này,
‘Có thân diệu hạnh, cũng có quả báo của thân diệu hạnh; có
khẩu, ý diệu hạnh, cũng có quả báo của khẩu và ý diệu hạnh’.
Ta nghe theo vị ấy. Nếu nói như vầy, ‘Ta thấy người kia từ bỏ
sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói
dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự xả ly, thủ hộ này, thân
hoại mạng chung sanh về chốn lành, sanh trong cõi trời’. Ta
nghe theo họ. Nếu nói như vầy, ‘Nếu có những trường hợp tương
tợ như vầy, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà
dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến; với sự xả ly, thủ
hộ này, tất cả những người ấy khi thân hoại mạng chung sanh về
chốn lành, sanh trong cõi trời’. Ta không nghe theo họ. Nếu
kia lại nói thế này, ‘Thấy như vậy mới là chánh kiến, thấy
khác là kẻ có trí tà’. Ta cũng không nghe họ. Bất cứ sở tri và
sở kiến nào được cực lực mò mẫm, chủ trương theo một chiều
rằng ‘Đây mới là chân thật, ngoài ra đều hư dối.’ Ta cũng
không nghe họ. Vì sao? Này A-nan, Như Lai biết những người đó
là trường hợp khác.
“Này A-nan, nếu có một người không từ bỏ sát
sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không
từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không xả
ly, không thủ hộ này, thân hoại mạng chung sanh về chốn lành,
sanh trong cõi trời. Ấy là, nếu trước kia nó đã tạo tác nghiệp
bất thiện, tác đã thành rồi, do sự không xả ly, không thủ hộ,
cho nên ở trong đời hiện tại thọ báo xong, họ sanh về nơi đó[10].
Hoặc do hậu báo cho nên người kia không vì nhơn này, không vì
duyên này mà thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, sanh
trong cõi trời. Hoặc trước kia đã tạo tác nghiệp thiện, tác đã
thành rồi, do xả ly và thủ hộ nên chưa tiêu hết, cần phải được
thọ báo ở chốn lành; kia do nhơn này, duyên này cho nên thân
hoại mạng chung sanh về chốn lành, sanh trong cõi trời. Hoặc
khi chết khởi các tâm, và tâm sở hữu pháp thuộc thiện[11]
tương ưng với chánh kiến; kia nhờ nhơn này, duyên này, thân
hoại mạng chung sanh về chốn lành, sanh trong cõi trời. A-nan,
Như Lai biết người kia là như vậy.
“Này A-nan, nếu có một người từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ
bỏ tà kiến; với sự xả ly, thủ hộ này, thân hoại mạng chung
sanh về nẻo ác, sanh trong địa ngục. Nếu trước kia họ đã tạo
tác nghiệp thiện, tác đã thành rồi, do sự xả ly, thủ hộ cho
nên ở trong đời hiện tại họ thọ báo xong, cho nên sanh về nơi
đó. Hoặc do bởi hậu báo cho nên họ không vì nhơn này, duyên
này mà thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, sanh trong địa
ngục. Hoặc trước kia đã tạo tác nghiệp bất thiện, tác đã thành
rồi, do không xả ly và không thủ hộ nên chưa tiêu hết, phải
thọ báo ở địa ngục; họ do nhơn này, duyên này cho nên thân
hoại mạng chung sanh về nẻo ác, sanh trong địa ngục. Hoặc khi
chết sanh tâm và các tâm sở hữu pháp bất thiện tương ưng với
tà kiến, do nhơn này, duyên này, thân hoại mạng chung sanh về
nẻo ác, sanh trong địa ngục. A-nan, Như Lai biết người kia là
như vậy.
“Này A-nan, nếu có một người không từ bỏ sát
sanh, không từ bỏ lấy của không cho, không từ bỏ tà dâm, không
từ bỏ nói dối, cho đến không từ bỏ tà kiến; với sự không xả
ly, không thủ hộ này, thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác,
sanh trong địa ngục. Kia do chính nhơn này, duyên này thân
hoại mạng chung sanh về nẻo ác, sanh trong địa ngục. Hoặc
trước kia đã tạo tác nghiệp bất thiện, tác đã thành rồi, do sự
không xả ly, không thủ hộ mà chưa tiêu hết, nên phải thọ báo ở
địa ngục; kia do nhơn này, duyên này cho nên thân hoại mạng
chung sanh về nẻo ác, sanh trong địa ngục. Hoặc khi chết sanh
các tâm và tâm sở hữu pháp bất thiện tương ưng với tà kiến,
kia do nhơn này, duyên này, thân hoại mạng chung sanh về nẻo
ác, sanh trong địa ngục. A-nan, Như Lai biết người kia là như
vậy.
“Này A-nan, nếu có một người từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, cho đến từ
bỏ tà kiến; với sự xả ly, thủ hộ này, thân hoại mạng chung
sanh về chốn lành, sanh trong cõi trời. Kia nhờ chính nhơn
này, duyên này thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, sanh
trong cõi trời. Hoặc trước kia đã tạo tác nghiệp thiện, tác đã
thành rồi, nhờ có xả ly, có thủ hộ mà chưa tiêu hết, phải được
thọ báo thiện; kia nhờ nhơn này, duyên này cho nên thân hoại
mạng chung sanh về chốn lành, sanh trong cõi trời. Hoặc đến
lúc chết sanh các tâm và tâm sở hữu pháp thiện tương ưng với
chánh kiến, kia do nhơn này, duyên này, thân hoại mạng chung
sanh về chốn lành, sanh trong cõi trời. A-nan, Như Lai biết
người kia là như vậy.
“Lại nữa, có bốn hạng người. Hoặc có người
không có mà tợ như có. Hoặc có mà tợ như không có. Hoặc không
có tợ như không có. Hoặc có tợ như có.
“Này A-nan, cũng như có bốn loại xoài. Hoặc
xoài không chín mà giống như chín. Hoặc chín giống như không
chín. Hoặc không chín giống như không chín. Hoặc chín giống
như chín.
“Cũng vâïy A-nan, bốn thứ xoài được thí dụ với
người. Hoặc có người không có mà tợ như có. Hoặc có mà tợ như
không có. Hoặc không có tợ như không có. Hoặc có tợ như có”.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các
Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M.136. Mahā-Kammavibhaga-suttam.
-
[02] Tam-di-đề, xem
kinh số 165.
-
[03] Bộ-la-đà Tử.
Pāli: Potaliputta.
-
[04] Hán: cố tác
nghiệp, nghiệp được làm với sự cố ý. Pāli: sañcetanika
kamma.
-
[05] Đại Châu-na.
Pāli: Mahā-Cunda, đệ tử của ngài Xá-lợi-phất.
-
[06] Vấn sự bất
định, câu hỏi không xác định, cần trả lời bằng phân biệt
đáp; một trong bốn ký vấn. Xem thêm cht. dưới. Bản Thánh
chép: vấn sự bất túc, nhầm tự dạng. Pāli: vibhajja-byākāiyo
pañho.
-
[07] Nhất hướng
đáp, một trong bốn cách trả lời vấn đề, tứ ký vấn: nhất
hướng (xác định), phân biệt, phản cật bà xả trí. Pāli:
ekasena vyākato.
-
[08] Chấp nhận có.
Trường hợp hành thiện, nhưng tái sanh ác thú. Vì có sự phân
biệt.
-
[09] Như trên,
nhưng không chấp nhận, vì quan điểm nhất hướng.
-
[10] Tức sanh về
cõi lành.
-
[11] Tức khi chết
với tâm và tâm sở thiện.