-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo sống cô độc tại một nơi
an tĩnh, thiền tọa tư duy, tâm khởi ý niệm: “Cái gì dẫn thế
gian đi? Cái gì làm nhiễm trước[02]?
Cái gì khởi tự tại[03]?”
Khi ấy, vào lúc xế chiều, Tỳ-kheo ấy từ thiền
tọa dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi ngồi
xuống một bên, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, hôm nay con một mình ở một nơi
yên tĩnh, thiền tọa tư duy, tâm khởi ý niệm ‘Cái gì dẫn thế
gian đi? Cái gì làm nhiễm trước? Cái gì khởi tự tại?’”.
Đức Thế Tôn nghe xong, khen ngợi:
“Lành thay, lành thay, Tỳ-kheo, là con đường
hiền thiện lại được quán sát hiền thiện, là biện tài tinh diệu
với tư duy khéo léo[04]
rằng ‘Cái gì dẫn thế gian đi? Cái gì làm nhiễm trước? Cái gì
khởi tự tại?’ Này Tỳ-kheo, câu hỏi của ngươi là như vậy
chăng?”
Thầy Tỳ-kheo ấy đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy”.
Đức Thế Tôn nói:
“Này Tỳ-kheo, tâm dẫn thế gian đi, tâm làm
nhiễm trước, tâm khởi tự tại[05].
Này Tỳ-kheo, chính nó dẫn thế gian đi, chính nó làm nhiễm
trước và cũng chính nó khởi tự tại. Này Tỳ-kheo, Đa văn Thánh
đệ tử không để tâm dẫn đi, không để tâm nhiễm trước, không để
tâm tự tại. Này Tỳ-kheo, Đa văn Thánh đệ tử không vâng theo sự
tự tại của tâm, mà tâm tùy theo tự tại của Đa văn Thánh đệ
tử”.
Tỳ-kheo bạch rằng:
“Lành thay! Lành thay! Kính vâng, Bạch Thế
Tôn!”
Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết giảng, hoan
hỷ phụng hành rồi lại hỏi tiếp:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo đa văn; được nói là
Tỳ-kheo đa văn, bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Tỳ-kheo đa văn?
Thế nào để được tuyên bố là Tỳ-kheo đa văn?”
Đức Thế Tôn nghe xong, khen ngợi:
“Lành thay, lành thay, Tỳ-kheo, là con đuờng
hiền thiện lại được quán sát hiền thiện, là biện tài tinh diệu
với tư duy khéo léo rằng ‘Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo đa văn; được
nói là Tỳ-kheo đa văn, bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Tỳ-kheo đa
văn? Thế nào để được tuyên bố là Tỳ-kheo đa văn?’ Này Tỳ-kheo,
câu hỏi của ngươi là như vậy chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy”.
Đức Thế Tôn nói:
“Này Tỳ-kheo, những gì được Ta thuyết giảng rất
nhiều, là chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên,
soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng
hữu pháp và thuyết nghĩa. Này Tỳ-kheo, nếu có thiện nam tử chỉ
nghe Ta nói bốn câu kệ mà biết nghĩa, biết pháp, thực hành
pháp và tùy pháp, thuận theo phạm hạnh, thì này Tỳ-kheo, nói
Tỳ-kheo đa văn là chỉ nói như vậy chứ không hơn nữa. Này
Tỳ-kheo, như vậy là Tỳ-kheo đa văn. Như Lai tuyên bố như vậy
là Tỳ-kheo đa văn”.
Tỳ-kheo bạch rằng:
“Lành thay! Lành thay! Kính vâng, Bạch Thế
Tôn!”
Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết giảng, hoan
hỷ phụng hành rồi lại hỏi tiếp:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo đa văn có trí tuệ minh
đạt[06],
nói là Tỳ-kheo đa văn có trí tuệ minh đạt. Bạch Thế Tôn,
Tỳ-kheo đa văn có trí tuệ minh đạt? Thế nào để được tuyên bố
là Tỳ-kheo đa văn có trí tuệ minh đạt?”
Đức Thế Tôn nghe xong khen ngợi:
“Lành thay, lành thay, Tỳ-kheo, là con đuờng
hiền thiện lại được quán sát hiền thiện, là biện tài tinh diệu
với tư duy khéo léo rằng ‘Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo đa văn có trí
tuệ minh đạt, nói là Tỳ-kheo đa văn có trí tuệ minh đạt. Bạch
Thế Tôn, Tỳ-kheo đa văn có trí tuệ minh đạt? Thế nào để được
tuyên bố là Tỳ-kheo đa văn có trí tuệ minh đạt?’ Này Tỳ-kheo,
câu hỏi của ngươi là như vậy chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy”.
Đức Thế Tôn nói:
“Này Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo nghe rằng ‘Đây là
Khổ’, tức thì với trí tuệ mà chân chánh thấy khổ đúng như
thật; nghe Khổ tập, Khổ diệt, Khổ diệt đạo, tức thì với trí
tuệ mà chân chánh thấy Khổ diệt đạo đúng như thật. Này
Tỳ-kheo, như vậy là đa văn Tỳ-kheo có trí tuệ minh đạt. Như
Lai tuyên bố như vậy là đa văn Tỳ-kheo có trí tuệ minh đạt”.
Tỳ-kheo bạch rằng:
“Lành thay! Lành thay! Kính vâng, Bạch Thế
Tôn!”
Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết giảng, hoan
hỷ phụng hành rồi lại hỏi tiếp:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo thông minh có hiệt tuệ,
quảng tuệ, nói là Tỳ-kheo thông minh có hiệt tuệ, quảng tuệ.
Bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo thông minh có hiệt tuệ, quảng
tuệ? Thế nào để được tuyên bố là Tỳ-kheo thông minh có hiệt
tuệ, quảng tuệ?”
Đức Thế Tôn nghe xong, khen ngợi:
“Lành thay, lành thay, Tỳ-kheo, là con đuờng
hiền thiện lại được quán sát hiền thiện, là biện tài tinh diệu
với tư duy khéo léo rằng ‘Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo thông minh có
hiệt tuệ, quảng tuệ, nói là Tỳ-kheo thông minh có hiệt tuệ,
quảng tuệ. Bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo thông minh có hiệt
tuệ, quảng tuệ? Thế nào để được tuyên bố là Tỳ-kheo thông minh
có hiệt tuệ, quảng tuệ?’ Này Tỳ-kheo, câu hỏi của ngươi là như
vậy chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Nếu Tỳ-kheo không có niệm gây tự hại, không có
niệm gây hại người, cũng không có niệm gây hại cả hai. Tỳ-kheo
chỉ có niệm làm lợi ích cho tự thân và lợïi ích cho người, lợi
ích cho mọi người, thương xót thế gian, mong muốn cho trời,
người được lợi ích và phước lành, được an ổn khoái lạc. Này
Tỳ-kheo, như vậy là Tỳ-kheo thông minh có hiệt tuệ, quảng tuệ,
Như Lai tuyên bố như vậy là Tỳ-kheo thông minh có hiệt tuệ,
quảng tuệ”.
Tỳ-kheo bạch rằng:
“Lành thay! Lành thay! Kính vâng, Bạch Thế
Tôn!”
Khi ấy, Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết
giảng, khéo thọ lãnh, khéo ghi nhớ, khéo tụng tập, rồi từ chỗ
ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng
rồi lui ra.
Lúc bấy giờ Tỳ-kheo ấy lãnh thọ lời dạy của Đức
Thế Tôn, sống cô độc nơi yên tĩnh xa vắng, tâm không phóng
dật, tu hành tinh cần. Tỳ-kheo ấy khi sống cô độc ở nơi xa
vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần để đạt đến mục
đích mà một thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chí
tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo, là duy chỉ
mong thành tựu phạm hạnh vô thượng, ngay trong đời này tự tri,
tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật ‘Sự
sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa’. Vị Tôn giả ấy đã biết pháp rồi, liền
chứng quả A-la-hán.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo ấy sau khi
nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán, quyển
45. Tương đương Pāli A.4.19.6 Ummagga-sutta. Hán, biệt dịch,
No.82 Phật Thuyết Ý Kinh, Tây Tấn, Trúc Pháp Hộ dịch.
-
[02] Thùy vi nhiễm
trước. No.82: dĩ hà cố thọ khổ, vì cái gì mà thọ khổ? Pāli:
kena loko parikissati, cái gì bức bách thế gian? Trong bản
Hán, đọc là pari-kilissati, thay vì parikissati.
-
[03] No.82: dĩ hà
cố sanh, sanh dĩ nhập tùy tùng, do cái gì mà sanh, sanh rồi
chịu chi phối? Pāli: Kassa ca uppannassa vasam gacchati,
dưới sự chỉ đạo của cái đã sanh khởi nào mà (thế giới) tiến
hành?
-
[04] Hữu hiền đạo
nhi hữu hiền quán.... Pāli: Bhaddako kho te ummaggo,
bhaddako paṭibhānam kalyāni paripucchā, tốt lành thay là con
đường (hầm) của ngươi; sự lý giải thật là tốt lành; những
câu hỏi thật là khéo léo.
-
[05] Pāli: cittassa
upannassa vasa gacchati, tâm sau khi sanh khởi khống chế
(thế gian).
-
[06] Minh đạt trí
tuệ. No.82: Tiệp tật trí tuệ. Pāli: Nibbedhikapañño, trí tuệ
nhạy bén hay sâu sắc (quyết trạch tuệ).