-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở tại
đô ấp Kiếm-ma-sắt-đàm[02].
Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Thế gian này có ham muốn như vầy, ước vọng như
vầy, yêu thích như vầy, vui sướng như vầy và ý hướng như vầy,
‘Mong sao các pháp không đáng thích, không đáng yêu, không vừa
ý tiêu diệt; và các pháp không đáng thích, không đáng yêu,
không vừa ý tiêu diệt sanh ra’. Nó ham muốn như vầy, ước vọng
như vầy, yêu thích như vầy, vui sướng như vầy và ý hướng như
vầy như vậy. Song, pháp không đáng thích, không đáng yêu,
không vừa ý lại sanh; pháp đáng thích, đáng yêu, đáng vừa ý
lại diệt. Đó gọi là pháp ngu si. Pháp của Ta rất là sâu xa,
khó thấy, khó giác ngộ, khó thông đạt. Như vậy, pháp của Ta
rất sâu xa, khó thấy, khó giác ngộ, khó thông đạt, là pháp
không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý tiêu diệt, mà
pháp đáng thích đáng yêu, đáng vừa ý được sanh. Đó là pháp
không ngu si.
“Thế gian này chân thật có bốn thọ pháp. Những
gì là bốn? Hoặc có thọ pháp hiện tại lạc mà tương lai thọ quả
báo khổ. Hoặc có thọ pháp hiện tại khổ mà tương lai thọ quả
báo lạc. Hoặc có thọ pháp hiện tại khổ mà tương lai cũng thọ
quả báo khổ. Hoặc có thọ pháp hiện tại lạc mà tương lai cũng
thọ báo lạc.
“Thế nào là pháp thọ hiện tại lạc mà tương lai
chịu quả báo khổ? Hoặc có một người tự mình vui sướng, tự mình
vui thích trong việc sát sanh. Do nhân sát sanh mà sanh lạc,
sanh hỷ. Người đó tự mình, vui sướng, tự mình vui thích trong
việc lấy của không cho, nói láo, cho đến tà kiến, nhân nơi tà
kiến mà sanh lạc, sanh hỷ. Như vậy, thân lạc, tâm lạc, bất
thiện, từ bất thiện mà sanh ra, không hướng đến trí, không
hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn.
“Đó là thọ pháp hiện tại lạc, tương lai chịu
quả báo khổ.
“Sao gọi là thọ pháp hiện tại khổ mà tương lai
được quả báo lạc? Hoặc có người tự mình khổ, tự mình ưu, đoạn
trừ việc sát sanh, do sự đoạn trừ việc sát hại mà sanh khổ,
sanh ưu, người đó tự khổ, tự ưu; đoạn trừ việc lấy của không
cho, tà dâm, nói láo, cho đến đoạn trừ tà kiến, do đoạn tà
kiến mà sanh khổ sanh ưu. Như vậy, thân khổ, tâm khổ, thiện
sanh, hướng đến trí, hướng đến giác, hướng đến Niết-bàn.
“Đó là thọ pháp hiện tại khổ mà tương lai thọ
đặng quả báo lạc.
“Sao gọi là thọ pháp hiện tại khổ mà tương lai
cũng thọ quả báo khổ? Hoặc có người tự khổ, tự ưu và sát sanh,
do sát sanh mà khổ, sanh ưu. Người đó tự khổ, tự ưu và lấy của
không cho, tà dâm, nói láo, cho đến tà kiến mà sanh khổ, sanh
ưu. Như vậy, thân khổ, tâm khổ, bất thiện từ bất thiện mà
sanh, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn.
“Đó gọi là pháp hiện tại khổ mà tương lai cũng
phải thọ quả báo khổ.
“Sao gọi là thọ pháp hiện tại an vui mà tương
lai cũng thọ quả báo an vui? Hoặc có người tự mình vui sướng,
tự mình vui thích, đoạn trừ sát sanh, do đoạn trừ sát sanh mà
sanh lạc, sanh hỷ. Người ấy tự mình vui sướng, tự mình vui
thích, đoạn trừ lấy của không cho, tà dâm, nói láo, cho đến tà
kiến. Do đoạn trừ tà kiến cho nên sanh lạc, sanh hỷ. Như vậy,
thân lạc và tâm lạc từ thiện mà sanh, hướng đến trí, hướng đến
giác, hướng đến Niết-bàn.
“Như thế gọi là thọ pháp hiện tại lạc mà tương
lai cũng thọ quả báo lạc.
“Hoặc có thọ pháp hiện tại lạc, tương lai thọ
quả báo khổ, nhưng người kia do ngu si chẳng biết như thật
rằng thọ pháp ấy hiện tại lạc, nhưng tương lai chịu lấy khổ
báo. Do không biết như thật nên tập hành không đoạn trừ[03].
Sau khi tập hành không đoạn trừ, pháp không đáng thích, không
đáng yêu, không vừa ý sanh; pháp không đáng thích, không đáng
yêu, không vừa ý tiêu diệt. Cũng như thuốc A-ma-ni-dược[04],
một phần có sắc, có hương, có vị, nhưng có trộn chất độc; hoặc
có người bị bệnh nên uống, khi uống thì sắc, hương và vị ngon
miệng mà không tổn hại cổ họng, nhưng khi uống xong, vào trong
bụng rồi lại chẳng thành thuốc. Cũng vậy, thọ pháp này hiện
tại lạc mà tương lai phải chịu lấy quả báo khổ. Người kia ngu
si không biết như thật rằng pháp thọ này hiện tại lạc mà tương
lai phải chịu quả báo khổ. Khi đã không biết như thật liền tập
hành không đoạn trừ. Sau khi tập hành không đoạn trừ, pháp
không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý lại sanh; pháp
đáng thích, đáng yêu, đáng vừa ý lại diệt. Đó gọi là pháp ngu
si.
“Nếu có thọ pháp hiện tại khổ mà tương lai chịu
quả báo lạc, song người ấy ngu si không biết như thật rằng thọ
pháp này hiện tại khổ mà tương lai sẽ được quả báo an lạc. Khi
đã không biết như thật liền không tập hành đoạn trừ. Sau khi
không tập hành đoạn trừ, pháp không đáng thích, không đáng
yêu, không vừa ý lại sanh; pháp đáng thích, đáng yêu, đáng vừa
ý lại diệt. Đó gọi là pháp ngu si.
“Hoặc có thọ pháp hiện tại khổ mà tương lai
cũng chịu quả báo khổ, song người ngu si không biết như thật
rằng thọ pháp này hiện tại khổ, tương lai cũng chịu quả báo
khổ. Khi đã không biết như thật, liền tập hành không đoạn trừ.
Khi đã tập hành không đoạn trừ, pháp không đáng thích, không
đáng yêu, không vừa ý lại sanh; pháp đáng thích, đáng yêu,
đáng vừa ý lại diệt.
“Cũng như đại tiểu tiện[05]
lại trộn lẫn độc, hoặc có người bị bệnh cho nên uống. Khi uống
thì nhơ nhớp, hôi thối, không có mùi vị, không ngon miệng mà
lại tổn thương cuống họng, uống vào trong bụng lại chẳng thành
thuốc. Cũng vậy, pháp thọ này hiện tại khổ, tương lai cũng
chịu quả báo khổ. Người kia ngu si không biết như thật rằng
pháp thọ này hiện tại khổ, tương lai cũng chịu quả báo khổ. Đã
không biết như thật, bèn tập hành sự không đoạn trừ. Do tập
hành sự không đoạn trừ, pháp không đáng thích, không đáng yêu,
không vừa ý lại sanh; pháp đáng thích, đáng yêu, đáng vừa ý
lại diệt. Đó gọi là pháp ngu si.
“Hoặc có thọ pháp hiện tại lạc, tương lai cũng
thọ quả báo lạc, nhưng người kia ngu si không biết như thật
rằng pháp thọ này hiện tại lạc mà tương lai cũng thọ báo lạc.
Do không biết như thật nên không tập hành sự đoạn trừ. Do
không tập hành sự đoạn trừ nên, pháp không đáng thích, không
đáng yêu, không vừa ý lại sanh; pháp đáng thích, đáng yêu,
đáng vừa ý lại diệt. Đó gọi là pháp ngu si.
“Người kia không biết như thật pháp nào nên tập
hành, không biết như thật pháp nào không nên tập hành. Do
không biết như thật pháp nào không nên tập hành và không biết
như thật pháp nào nên tập hành, do đó pháp không nên tập hành
lại tập hành, pháp nên hành lại không hành. Do tập hành pháp
không nên tập hành và không tập hành pháp nên tập hành, pháp
không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý lại sanh; pháp
đáng thích, đáng yêu, đáng vừa ý lại diệt. Đó gọi là pháp ngu
si.
“Nếu có thọ pháp hiện tại lạc mà tương lai thọ
quả báo khổ, người có trí tuệ biết như thật rằng pháp thọ này
hiện tại lạc mà tương lai thọ quả báo khổ. Do biết như thật
nên không tập hành nó, mà đoạn trừ nó. Do không tập hành nhưng
đoạn trừ, pháp không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý
diệt, mà pháp đáng thích đáng yêu, đáng vừa ý sanh. Đó gọi là
pháp tuệ.
“Nếu có thọ pháp hiện tại khổ mà tương lai thọ
quả báo lạc, người có trí tuệ biết như thật rằng thọ pháp này
hiện tại khổ nhưng tương lai lại được quả báo lạc. Do biết như
thật, vị ấy tập hành nó mà không đoạn trừ. Do tập hành mà
không đoạn trừ, pháp không đáng thích, không đáng yêu, không
vừa ý diệt, mà pháp đáng thích đáng yêu, đáng vừa ý sanh.
“Cũng như đại tiểu tiện[06]
có hòa với nhiều thứ thuốc, hoặc có người bị bệnh uống; khi
uống, sắc xấu, hôi thối, không mùi vị, không ngon miệng mà hại
đau cuống họng, nhưng uống vào trong bụng lại thành thuốc.
Cũng vậy, thọ pháp này hiện tại khổ mà tương lai thọ quả báo
lạc, người trí tuệ biết như thật rằng thọ pháp này hiện tại
khổ mà tương lai thọ quả báo lạc. Do biết như thật, vị ấy tập
hành nó mà không đoạn trừ. Do tập hành mà không đoạn trừ, pháp
không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý diệt, mà pháp
đáng thích đáng yêu, đáng vừa ý sanh. Đó gọi là pháp tuệ.
“Hoặc có thọ pháp hiện tại khổ mà tương lai
cũng chịu quả báo khổ, người có trí tuệ biết như thật rằng thọ
pháp này hiện tại khổ mà tương lai cũng chịu quả báo khổ. Do
trí biết như thật, vị ấy không tập hành nó, nhưng đoạn trừ. Do
không tập hành nó nhưng đoạn trừ, pháp không đáng thích, không
đáng yêu, không vừa ý diệt, mà pháp đáng thích đáng yêu, đáng
vừa ý sanh. Đó gọi là pháp tuệ.
“Hoặc có thọ pháp hiện tại lạc, tương lai thọ
quả báo lạc, người trí tuệ biết như thật rằng thọ pháp này
hiện tại lạc, tương lai thọ quả báo lạc. Do biết như thật, vị
ấy tập hành chứ không đoạn trừ. Do tập hành chứ không đoạn
trừ, pháp không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý diệt,
mà pháp đáng thích đáng yêu, đáng vừa ý sanh. Đó gọi là pháp
tuệ.
“Cũng như tô mật hòa với nhiều thứ thuốc, hoặc
có người bị bệnh nên uống, khi uống có sắc đẹp, có hương, có
vị, ngon miệng mà không tổn thương cuống họng, uống vào bụng
lại thành thuốc. Cũng vậy, pháp thọ này hiện tại lạc, tương
lai thọ quả báo lạc. Người trí tuệ biết một cách như thật rằng
pháp thọ này hiện tại lạc, tương lai cũng thọ quả báo lạc. Do
biết như thật, vị ấy tập hành chứ không đoạn trừ; pháp không
đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý diệt, mà pháp đáng
thích đáng yêu, đáng vừa ý sanh. Đó gọi là pháp tuệ.
“Người đó biết như thật rằng, đây là pháp nên
tập hành, biết như thật rằng đây là pháp không nên tập hành.
Do biết như thật pháp nào nên tập hành và pháp nào không nên
tập hành, vị ấy tập hành pháp nên tập hành, không tập hành
pháp không nên tập hành. Do tập hành pháp nên tập hành và
không nên tập hành pháp không nên tập hành, pháp không đáng
thích, không đáng yêu, không vừa ý diệt, mà pháp đáng thích
đáng yêu, đáng vừa ý sanh. Đó gọi là pháp tuệ.
“Thế gian quả thật có bốn thọ pháp ấy, vì vậy
mà Ta giảng thuyết”.
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M.46. Mahā-Dhammasamādāna-suttam. Hán, biệt dịch,
No.83 Phật Thuyết Ứng Pháp Kinh, Trúc Pháp Hộ dịch.
-
[02] Xem cht.2,3
kinh số 10. No.83: Tại Câu loại Pháp trị xứ dịch âm và dịch
nghĩa hỗn hợp của Kuru-kammāsaddhamma. Bản Pāli: tại
Sāvatthi.
-
[03] Tập hành, bất
đoạn. N.83: hành, bất khí. Làm theo chứ không bỏ”. Pāli:
sevati na parivajjiti, phục vụ, không tránh né.
-
[04] A-ma-ni-dược.
Pāli: āpānīyakasa, bình đựng nước uống. Trong bản Hán, dược,
có lẽ phiên âm từ -yakasa, không có nghĩa là thuốc.
-
[05] Pāli:
pūtimuttam, nước đái quỷ, tức a-ngùy, thường dùng làm thuốc.
-
[06] Xem cht.5
trên.