-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Trong thế gian quả thật có bốn loại hành
thiền. Những gì là bốn? Hoặc có hành thiền xí thạnh mà gọi là
suy thoái. Hoặc có hành thiền suy thoái mà gọi là xí thạnh.
Hoặc có hành thiền suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
Hoặc có hành thiền xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
“Tại sao gọi là người hành thiền xí thạnh mà
cho là suy thoái?
“Người hành thiền kia ly dục, ly pháp ác bất
thiện, có giác, có quán, hỷ và lạc phát sanh do ly dục, chứng
Sơ thiền, thành tựu an trụ. Tâm người đó tu tập chánh tư duy,
đang từ Sơ thiền hướng đến Nhị thiền, đó là sự tịch tịnh thù
thắng. Người hành thiền đó lại nghĩ rằng, ‘Tâm ta lìa bổn
tướng mà hướng đến chỗ khác, làm mất Sơ thiền và diệt mất
định’. Người hành thiền ấy không biết như thật rằng ‘Tâm ta tu
tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, từ Sơ thiền hướng đến
Nhị thiền, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị đó do không biết như
thật như vậy, nên đối với sự như thật mà thoái chuyển ý, bèn
mất định. Hành thiền như vậy là xí thạnh mà nói là thoái
chuyển vậy.
“Lại nữa, người hành thiền, giác và quán đã
tịch tịnh, nội tĩnh, nhất tâm, không giác không quán, có hỷ và
lạc phát sanh do định, chứng đệ Nhị thiền, thành tựu an trụ.
Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, từ Nhị thiền hướng đến Tam
thiền, đó gọi là tịch tịnh thù thắng. Nhưng người hành thiền
ấy lại nghĩ rằng ‘Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ khác,
làm mất Sơ thiền và diệt mất định’. Người hành thiền ấy không
biết như thật rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch
tịnh, từ Nhị thiền hướng đến Tam thiền, đó là tịch tịnh thù
thắng’. Vị đó do không biết như thật như vậy, nên đối với sự
như thật mà thoái chuyển ý, bèn mất định. Hành thiền như vậy
là xí thạnh mà nói là thoái chuyển vậy.
“Lại nữa, người hành thiền ly hỷ và dục, xả, an
trụ vô cầu, chánh niệm, chánh trí mà thân có cảm giác lạc,
điều được Thánh nói là được Thánh xả, niệm, an trú lạc, chứng
đắc đệ Tam thiền, thành tựu an trụ. Tâm vị ấy tu tập chánh tư
duy, từ đệ Tam thiền hướng đến đệ Tứ thiền, đó là tịch tịnh
thù thắng. Nhưng người hành thiền đó lại nghĩ rằng ‘Tâm ta lìa
bổn tướng mà hướng đến chỗ khác, làm mất Sơ thiền và diệt mất
định’. Người hành thiền ấy không biết như thật rằng ‘Tâm ta tu
tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, từ Tam thiền hướng đến
Tứ thiền, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị đó do không biết như
thật như vậy, nên đối với sự như thật mà thoái chuyển ý, bèn
mất định. Hành thiền như vậy là xí thạnh mà nói là thoái
chuyển vậy.
“Lại nữa, người hành thiền định, khổ diệt, lạc
diệt, hỷ và ưu vốn đã diệt, không khổ không lạc, xả niệm thanh
tịnh, chứng đắc đệ Tứ thiền, thành tựu an trụ. Tâm vị ấy tu
tập chánh tư duy, từ đệ Tứ thiền hướng đến Vô lượng không xứ,
đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng vị hành thiền ấy lại nghĩ
rằng ‘Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ khác, làm mất Sơ
thiền và diệt mất định’. Người hành thiền ấy không biết như
thật rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, từ
Tứ thiền hướng đến Vô lượng không xứ, đó là tịch tịnh thù
thắng’. Vị đó do không biết như thật như vậy, nên đối với sự
như thật mà thoái chuyển ý, bèn mất định. Hành thiền như vậy
là xí thạnh mà nói là thoái chuyển vậy.
“Lại nữa, người hành thiền vượt qua tất cả sắc
tưởng, diệt hữu tưởng, không tư duy bất cứ loại tưởng nào,
nhập vô lượng không, thành tựu an trụ nơi Vô lượng không xứ.
Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, từ Vô lượng không xứ hướng đến
Vô lượng thức xứ, đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng vị hành
thiền ấy lại nghĩ rằng ‘Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ
khác, làm mất Sơ thiền và diệt mất định’. Người hành thiền ấy
không biết như thật rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái
lạc tịch tịnh, từ Vô lượng không xứ hướng đến Vô lượng thức
xứ, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị đó do không biết như thật
như vậy, nên đối với sự như thật mà thoái chuyển ý, bèn mất
định. Hành thiền như vậy là xí thạnh mà nói là thoái chuyển
vậy.
“Lại nữa, người hành thiền vượt qua tất cả Vô
lượng không xứ, nhập vô lượng thức, thành tựu an trụ Vô lượng
thức xứ. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, từ Vô lượng thức xứ
hướng đến Vô sở hữu xứ, đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng vị
hành thiền ấy lại nghĩ ‘Tâm ta lìa bổn tướng mà hướng đến chỗ
khác, làm mất Sơ thiền và diệt mất định’. Người hành thiền ấy
không biết như thật rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái
lạc tịch tịnh, từ Vô lượng thức xứ hướng đến Vô sở hữu xứ, đó
là tịch tịnh thù thắng’. Vị đó do không biết như thật như vậy,
nên đối với sự như thật mà thoái chuyển ý, bèn mất định. Hành
thiền như vậy là xí thạnh mà nói là thoái chuyển vậy.
“Lại nữa, người hành thiền vượt qua tất cả thức
vô lượng xứ, nhập Vô sở hữu xứ, thành tựu an trụ Vô sở hữu xứ.
Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, từ Vô sở hữu xứ hướng đến phi
tưởng phi vô tưởng xứ, đó là tịch tịnh thù thắng. Nhưng vị
hành thiền ấy lại nghĩ rằng: “Tâm ta lìa bốn tướng mà hướng
đến chỗ khác, nên mất vô xứ Vô sở hữu xứ, diệt mất định”. Vị
hành thiền ấy không biết như thật rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư
duy, khoái lạc tịch tịnh, từ Vô sở hữu xứ hướng đến phi tưởng
phi vô tưởng xứ, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị đó do không
biết như thật như vậy, nên đối với sự như thật mà thoái chuyển
ý, bèn mất định. Hành thiền như vậy là xí thạnh mà nói là
thoái chuyển vậy.
“Thế nào là hành thiền suy thoái mà cho là xí
thạnh?
“Vị hành thiền ấy ly dục, ly ác bất thiện pháp,
có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ
thiền, thành tựu an trụ. Vị ấy tư duy trong những tưởng hạn
hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Nhị thiền, nhưng vị ấy
lại nghĩ rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch
tịnh, từ Sơ thiền hướng đến Nhị thiền, đó là tịch tịnh thù
thắng’. Vị hành thiền ấy không biết như thật rằng chỉ nên tư
duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Sơ thiền, nhưng
không nên bằng tư duy về những tưởng hạn hẹp khác mà vào Nhị
thiền. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ tâm
mình, vị ấy vì vậy mà mất định. Hành thiền như vậy là suy
thoái mà cho là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền với giác và quán đã
dứt, nội tĩnh, nhất tâm, không giác không quán, hỷ lạc do định
sanh, chứng đệ Nhị thiền, thành tựu an trụ. Vị ấy tư duy trong
những tưởng hạn hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Tam
thiền. Nhưng vị ấy lại nghĩ rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư duy,
khoái lạc tịch tịnh, từ Nhị thiền hướng đến Tam thiền, đó là
tịch tịnh thù thắng’. Vị hành thiền ấy không biết như thật
rằng chỉ nên tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập
Nhị thiền, nhưng không nên bằng tư duy về những tưởng hạn hẹp
khác mà vào Tam thiền. Vị ấy do không biết như thật nên không
biết rõ tâm mình, vị ấy vì vậy mà mất định. Hành thiền như vậy
là suy thoái mà cho là xí thạnh.
“Vị hành thiền ly hỷ, ly dục, xả, an trụ vô
cầu, chánh niệm, chánh trí mà thân cảm giác lạc, điều được
Thánh gọi là được Thánh xả, niệm an trụ lạc, chứng đệ Tam
thiền, thành tựu và an trụ. Vị ấy tư duy trong những tưởng hạn
hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Tứ thiền. Nhưng vị ấy lại
nghĩ rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, từ
Tam thiền hướng đến Tứ thiền, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị
hành thiền ấy không biết như thật rằng chỉ nên tư duy bằng
tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Tam thiền, nhưng không nên
bằng tư duy về những tưởng hạn hẹp khác mà vào Tứ thiền. Vị ấy
do không biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vị ấy vì
vậy mà mất định. Hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí
thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền với lạc diệt, khổ diệt,
hỷ ưu vốn cũng đã diệt, không khổ không lạc, xả niệm thanh
tịnh, chứng đắc Tứ thiền, thành tựu an trụ. Vị ấy tư duy trong
những tưởng hạn hẹp khác mà tu tập con đường dẫn đến Vô lượng
không xứ, nhưng vị ấy lại nghĩ rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư
duy, khoái lạc tịch tịnh, từ Tứ thiền thiền hướng đến Vô lượng
không xứ, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị hành thiền ấy không
biết như thật rằng chỉ nên tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm
ly mà nhập Tứ thiền, nhưng không nên bằng tư duy về những
tưởng hạn hẹp khác mà vào Vô lượng không xứ. Vị ấy do không
biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vị ấy vì vậy mà mất
định. Hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền vượt qua tất cả sắc
tưởng, diệt hữu đối tưởng, không tư duy bất cứ loại tưởng nào,
nhập vô lượng không, chứng Vô lượng không xứ ấy, thành tựu an
trụ. Vị ấy tư duy trong những tưởng hạn hẹp khác mà tu tập con
đường dẫn đến Vô lượng thức xứ, nhưng vị ấy lại nghĩ rằng ‘Tâm
ta tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, từ Vô lượng không
xứ hướng đến Vô lượng thức xứ, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị
hành thiền ấy không biết như thật rằng chỉ nên tư duy bằng
tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Vô lượng không xứ, nhưng
không nên bằng tư duy về những tưởng hạn hẹp khác mà vào Vô
lượng thức xứ. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ
tâm mình, vị ấy vì vậy mà mất định. Hành thiền như vậy là suy
thoái mà cho là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền vượt qua Vô lượng không
xứ, nhập vô lượng thức, chứng Vô lượng thức xứ ấy, thành tựu
an trụ. Vị ấy tư duy trong những tư tưởng hạn hẹp khác mà tu
tập con đường dẫn đến Vô sở hữu xứ, nhưng vị ấy lại nghĩ rằng
‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, từ Vô lượng
thức xứ hướng đến Vô sở hữu xứ, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị
hành thiền ấy không biết như thật rằng chỉ nên tư duy bằng
tưởng tương ưng với yểm ly mà nhập Vô lượng thức xứ, nhưng
không nên bằng tư duy về những tưởng hạn hẹp khác mà vào Vô sở
hữu xứ. Vị ấy do không biết như thật nên không biết rõ tâm
mình, vị ấy vì vậy mà mất định. Hành thiền như vậy là suy
thoái mà cho là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền vượt qua tất cả Vô
lượng thức xứ, nhập vô sở hữu, chứng Vô sở hữu xứ, thành tựu
an trụ. Vị ấy tư duy trong những tư tưởng hạn hẹp khác mà tu
tập con đường dẫn đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, nhưng vị
ấy lại nghĩ rằng ‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch
tịnh, từ Vô sở hữu xứ hướng đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ,
đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị hành thiền ấy không biết như
thật rằng chỉ nên tư duy bằng tưởng tương ưng với yểm ly mà
nhập Vô sở hữu xứ, nhưng không nên bằng tư duy về những tưởng
hạn hẹp khác mà vào đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Vị ấy
do không biết như thật nên không biết rõ tâm mình, vị ấy vì
vậy mà mất định. Hành thiền như vậy là suy thoái mà cho là xí
thạnh.
“Thế nào là hành thiền suy thoái thì biết như
thật là suy thoái?
“Vị hành thiền ấy với sở hành, với đối tượng và
mục tiêu, vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập Phi hữu tưởng phi
vô tưởng xứ, chứng Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an
trụ, nhưng vị ấy không chấp thọ hành ấy, không suy niệm về đối
tượng và mục tiêu ấy, mà chỉ hành trên niệm tưởng tương ưng Vô
sở hữu xứ, bèn thối thất trở lại đó. Vị ấy nghĩ rằng, ‘Tâm ta
lìa khỏi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Phi hữu tưởng
phi vô tưởng xứ; diệt định vậy’. Vị ấy biết như thật rồi, đối
với sự như thật không thoái ý, không mất định. Hành thiền như
vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy với sở hành, với đối
tượng và mục tiêu, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập vô
sở hữu, chứng Vô sở hữu xứ ấy, thành tựu an trụ. Nhưng vị ấy
không thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy,
mà chỉ hành trên niệm tưởng tương ưng Vô lượng thức xứ, bèn
thối thất trở lại đó. Vị ấy nghĩ rằng, ‘Tâm ta lìa khỏi bổn
tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Vô sở hữu xứ; diệt định
vậy’. Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không thoái
ý, không mất định. Hành thiền như vậy là suy thoái thì biết
như thật là suy thoái.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy với sở hành, với đối
tượng và mục tiêu, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập vô
lượng thức, chứng Vô lượng thức xứ, thành tựu an trụ. Nhưng vị
ấy không chấp thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục
tiêu ấy, mà chỉ hành trên niệm tưởng tương ưng Vô lượng không
xứ, bèn thối thất trở lại đó. Vị ấy bèn nghĩ rằng ‘Tâm ta lìa
khởi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Vô lượng thức xứ;
diệt định vậy’. Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật
không thoái ý, không mất định. Hành thiền như vậy là suy thoái
thì biết như thật là suy thoái.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy với sở hành, với đối
tượng và mục tiêu, vượt qua tất cả các sắc tưởng, diệt hữu đối
tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập vô lượng
không, chứng Vô lượng không xứ ấy, thành tựu an trụ. Nhưng vị
ấy không chấp thọ hành ấy, không suy niệm về đối tượng và mục
tiêu ấy, mà chỉ hành trên niệm tưởng tương ưng sự ái lạc sắc,
bèn thối thất trở lại đó. Vị ấy nghĩ rằng ‘Tâm ta lìa khởi bổn
tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Vô lượng không xứ; diệt
định vậy’. Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không
thoái ý, không mất định. Hành thiền như vậy là suy thoái
thì biết như thật là suy thoái.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy với sở hành, với đối
tượng và mục tiêu, lạc diệt, khổ diệt, hỷ ưu vốn có cũng đã
diệt, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đệ Tứ
thiền, thành tựu an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ hành ấy,
không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, mà chỉ hành trên
niệm tưởng tương ưng đệ Tam thiền, bèn thối thất trở lại đó.
Vị ấy nghĩ rằng ‘Tâm ta lìa khởi bổn tướng, lại hướng đến chỗ
khác, mất đệ Tứ thiền; diệt định vậy’. Vị ấy biết như thật
rồi, đối với sự như thật không thoái ý, không mất định. Hành
thiền như vậy là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy với sở hành, với đối
tượng và mục tiêu, ly hỷ, ly dục, xả, an trụ vô cầu, chánh
niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều được Thánh gọi được
Thánh xả, niệm, an trú lạc trụ, chứng đệ Tam thiền, thành tựu
an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ hành ấy, không suy niệm về
đối tượng và mục tiêu ấy, mà chỉ hành trên niệm tưởng tương
ưng đệ Nhị thiền, bèn thối thất trở lại đó. Vị ấy nghĩ rằng
‘Tâm ta lìa khởi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất đệ Tam
thiền; diệt định’. Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như
thật không thoái ý, không mất định. Hành thiền như vậy là suy
thoái thì biết như thật là suy thoái.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy với sở hành, với đối
tượng và mục tiêu, giác và quán đã dứt, nội tĩnh, nhất tâm,
không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đệ Nhị
thiền, thành tựu an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ hành ấy,
không suy niệm về đối tượng và mục tiêu ấy, mà chỉ hành trên
niệm tưởng tương ưng Sơ thiền, bèn thối thất trở lại đó. Vị ấy
nghĩ rằng ‘Tâm ta lìa khởi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác,
mất đệ Nhị thiền; diệt định’. Vị ấy biết như thật rồi, đối với
sự như thật không thoái ý, không mất định. Hành thiền như vậy
là suy thoái thì biết như thật là suy thoái.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy với sở hành, với đối
tượng và mục tiêu, ly dục, ly ác bất thiện pháp, có giác, có
quán, có hỷ lạc do định sanh, chứng Sơ thiền, thành tựu an
trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ hành ấy, không suy niệm về đối
tượng và mục tiêu ấy, chỉ hành trên niệm tưởng tương ưng sự ái
lạc dục, bèn thối thất trở lại đó. Vị ấy nghĩ rằng ‘Tâm ta lìa
khởi bổn tướng, lại hướng đến chỗ khác, mất Sơ thiền, diệt
định vậy’. Vị ấy biết như thật rồi, đối với sự như thật không
thoái ý, không mất định. Hành thiền như vậy là suy thoái thì
biết như thật là suy thoái.
“Thế nào là hành thiền mà xí thạnh thì biết như
thật là xí thạnh?
“Vị hành thiền ấy ly dục, ly ác bất thiện pháp,
có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ
thiền, thành tựu an trụ. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, khoái
lạc tịch tịnh, rồi từ Sơ thiền hướng đến Nhị thiền, đó là tịch
tịnh thù thắng. Vị hành thiền ấy bèn nghĩ như vầy ‘Tâm ta tu
tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, rồi từ Sơ thiền hướng
đến đệ Nhị thiền, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị ấy biết như
thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không mất định. Hành thiền như
vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy giác quán đã dứt,
nội tĩnh nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do định
sanh, chứng đệ Nhị thiền, thành tựu an trụ. Tâm vị ấy tu tập
chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, rồi từ Nhị thiền hướng đến
Tam thiền, đó là tịch tịnh thù thắng. Vị ấy bèn nghĩ rằng ‘Tâm
ta tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, rồi từ Nhị thiền
hướng đến Tam thiền, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị ấy biết
như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không mất định. Hành thiền
như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy ly hỷ, ly dục, xả,
vô cầu, an trụ, chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều
được Thánh gọi là được Thánh xả, niệm, an trụ lạc trụ, chứng
đệ Tam thiền, thành tựu an trụ. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy,
khoái lạc tịch tịnh, rồi từ Tam thiền hướng đến Tứ thiền, đó
là tịch tịnh thù thắng. Vị hành thiền ấy bèn nghĩ như ‘Tâm ta
tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, rồi từ Tam thiền
hướng đến Tứ thiền, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị ấy biết như
thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không mất định. Hành thiền như
vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy với lạc diệt, khổ
diệt, hỷ ưu vốn có cũng đã diệt, không khổ, không lạc, xả niệm
thanh tịnh, chứng đệ Tứ thiền, thành tựu an trụ. Tâm vị ấy tu
tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, rồi từ Tứ thiền hướng
đến Vô lượng không xứ, đó là tịch tịnh thù thắng. Vị hành
thiền ấy bèn nghĩ như vầy ‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái
lạc tịch tịnh, rồi từ Tứ thiền hướng đến Vô lượng không xứ, đó
là tịch tịnh thù thắng’. Vị ấy biết như thật rồi, bèn biết rõ
tâm ấy mà không làm mất định. Hành thiền như vậy là xí thạnh
thì biết như thật là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy vượt qua tất cả sắc
tưởng, diệt hữu đối tưởng, không tư duy bất cứ loại tưởng nào,
nhập vô lượng không, chứng, Vô lượng không xứ ấy, thành tựu an
trụ. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, rồi
từ Vô lượng không xứ hướng đến Vô lượng thức xứ, đó là tịch
tịnh thù thắng. Vị hành thiền ấy bèn nghĩ như vầy ‘Tâm ta tu
tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, rồi từ Vô lượng không
xứ hướng đến Vô lượng thức xứ, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị
ấy biết như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không mất định.
Hành thiền như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy vượt qua Vô lượng
không xứ, nhập vô lượng thức, chứng Vô lượng thức xứ ấy, thành
tựu an trụ. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch
tịnh, rồi từ Vô lượng thức xứ hướng đến Vô sở hữu xứ, đó là
tịch tịnh thù thắng. Vị hành thiền ấy bèn nghĩ như vầy ‘Tâm ta
tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, rồi từ Vô lượng thức
xứ hướng đến Vô sở hữu xứ, đó là tịch tịnh thù thắng’. Vị ấy
biết như thật rồi, bèn biết rõ tâm ấy mà không mất định. Hành
thiền như vậy là xí thạnh thì biết như thật là xí thạnh.
“Lại nữa, vị hành thiền ấy vượt qua tất cả Vô
lượng thức xứ, nhập vô sở hữu, chứng Vô sở hữu xứ, thành tựu
an trụ. Tâm vị ấy tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh,
rồi từ Vô sở hữu xứ hướng đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ,
đó là tịch tịnh thù thắng. Vị hành thiền ấy bèn nghĩ như vầy
‘Tâm ta tu tập chánh tư duy, khoái lạc tịch tịnh, rồi từ Vô sở
hữu xứ hướng đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, đó là tịch
tịnh thù thắng’. Vị ấy biết như thật rồi bèn biết rõ tâm ấy mà
không làm mất định. Hành thiền như vậy là xí thạnh thì biết
như thật là xí thạnh.
“Thế gian quả thật có bốn loại hành thiền, vì
vậy mà Ta giảng thuyết”.
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
[01] Bản Hán, quyển
46.