-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Thích-ki-sấu, ở
tại Gia-bệ-la-vệ, trong vườn Ni-câu-loại[02].
Bấy giờ, Ma-ha Bá-la-xà-bát-đề Cù-đàm-di[03]
đem một chiếc y mới sắc vàng, dệt bằng kim tuyến, đến chỗ Đức
Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi xuống một bên rồi
thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, chiếc y mới sắc vàng dệt bằng
kim tuyến này, tôi tự cắt may cho Thế Tôn. Mong Thế Tôn thương
xót tôi mà thâu nạp cho.
Đức Thế Tôn nói:
“Này Cù-đàm-di, hãy đem y này dâng cúng cho
chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo tức là đã cúng
dường Ta, cũng như đã cúng dường đại chúng.
Lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Đại Sanh Chủ[04]
Cù-đàm-di vẫn thưa:
“Bạch Thế Tôn, chiếc y mới sắc vàng dệt bằng
kim tuyến này, tôi tự cắt may cho Thế Tôn. Mong Thế Tôn thương
xót tôi mà thâu nạp cho.
Lần thứ hai, rồi lần thứ ba, Đức Thế Tôn cũng
vẫn nói:
“Này Cù-đàm-di, hãy đem y này dâng cúng cho
chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo tức là đã cúng
dường Ta, cũng như đã cúng dường đại chúng.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đứng phía sau Đức Thế
Tôn, cầm quạt hầu Phật, liền thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, đại Sanh Chủ Cù-đàm-di đã đem
lại cho Thế Tôn nhiều lợi ích, đã bảo dưỡng Thế Tôn sau khi
thân mẫu Thế Tôn qua đời”.
Đức Thế Tôn nói:
“Này A-nan, thật sự như vậy. Này A-nan, thật sự
như vậy. Đại Sanh Chủ Cù-đàm-di đã đem lại cho Ta nhiều lợi
ích, đã bảo dưỡng Ta sau khi thân mẫu Ta qua đời. Nhưng này
A-nan, ta cũng đem lại cho Đại Sanh Chủ Cù-đàm-di nhiều lợi
ích. Vì sao vậy? Đại Sanh Chủ Cù-đàm-di nhờ Ta mà được quy y
Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo, không nghi ngờ Ba ngôi tôn quý,
Khổ, Tập, Diệt, Đạo, thành tựu tín, giới, đa văn, bố thí, trí
tuệ, xa lìa nghiệp sát, đoạn trừ nghiệp sát, không cho mà lấy,
tà dâm, nói dối, xa lìa nghiệp uống rượu, đoạn trừ nghiệp uống
rượu. A-nan, nếu có người nhờ ngưới mà được quy y Phật, Pháp
và chúng Tỳ-kheo, không nghi ngờ ba ngôi tôn quý, không nghi
ngờ Khổ, Tập, Diệt, Đạo, thành tựu tín, giới, đa văn, bố thí,
trí tuệ, xa lìa nghiệp sát, đoạn trừ nghiệp sát, không cho mà
lấy, tà dâm, nói dối, xa lìa nghiệp uống rượu, đoạn trừ nghiệp
uống rượu, thì người này cúng dường lại người kia, dù cho đến
suốt đời, uống ăn, áo chăn, giường chõng, thuốc thang và đủ
các thứ vật dụng cho đời sống, vẫn chưa thể đền ơn.
“Lại nữa, này A-nan, có bảy loại bố thí cho
Tăng chúng, và có mười loại bố thí riêng cho từng người, sẽ
được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo
rộng lớn.
“Này A-nan, thế nào gọi là bảy loại bố thí cho
Tăng chúng sẽ đượïc đại phước, được đại quả, được đại công
đức, được quả báo rộng lớn?
“Thiện nam tử hay thiện nữ nhân có tín tâm[05]
khi Phật còn tại thế, Phật là vị đứng đầu, mà bố thí cho Phật
và chúng Tỳ-kheo, như vậy gọi là loại bố thí thứ nhất cho Tăng
chúng sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được
quả báo rộng lớn.
“Thiện nam tử hay thiện nữ nhân có tín tâm, sau
khi Thế Tôn nhập Niết-bàn không lâu, bố thí cho cả hai bộ
chúng, bố thí cho chúng Tỳ-kheo, bố thí cho chúng Tỳ-kheo-ni;
đi vào tinh xá Tỳ-kheo bạch với chúng rằng ‘Mong trong chúng ở
đây cử ra một số Tỳ-kheo để chúng con được bố thí’; đi vào
tinh xá Tỳ-kheo-ni bạch với chúng rằng ‘Mong trong chúng ở đây
cử ra một số Tỳ-kheo-ni để chúng con được bố thí’. Như vậy gọi
là loại bố thí thứ năm cho Tăng chúng, sẽ được đại phước, được
đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn.
“Này A-nan, trong thời tương lai, có Tỳ-kheo
thuộc loại danh tánh[06],
khoác áo cà-sa mà không tinh tấn, vị ấy đã không tinh tấn,
không tinh cần mà vẫn được bố thí vì có ở trong chúng, duyên
nơi chúng, ở trên chúng, nhân nơi chúng, Ta nói lúc bấy giờ
thí chủ sẽ được phước vô lượng không thể đếm, không thể kể,
được thiện, được lạc; huống nữa là bố thí cho Tỳ-kheo thành
tựu hành sự[07],
thành tựu trừ sự[08],
thành tựu cả hành sự và trừ sự, thành tựu chất trực, thành tựu
nhu nhuyến, thành tựu cả chất trực và nhu nhuyến, thành tựu
nhẫn, thành tựu lạc, thành tựu cả nhẫn và lạc, thành tựu tương
ưng, thành tựu kinh kỹ, thành tựu cả tương ưng và kinh kỹ,
thành tựu oai nghi, thành tựu hành lai du[09],
thành tựu cả oai nghi và hành lai du[10],
thành tựu tín, thành tựu giới, thành tựu đa văn, thành tựu
thí, thành tựu tuệ, thành tựu cả tín, giới, đa văn, thí, tuệ.
Như vậy gọi là loại bố thí thứ bảy cho Tăng chúng, sẽ được đại
phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn.
“Đó gọi là bảy loại bố thí cho Tăng chúng sẽ
được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo
rộng lớn.
“Này A-nan, thế nào gọi là mười bốn loại bố thí
riêng cho từng người sẽ được đại phước, được đại quả, được đại
công đức, quả báo rộng lớn?
“Thiện nam tử hay thiện nữ có tín nhân bố thí
cho Đức Như Lai, bố thí cho Duyên giác, bố thí cho A-la-hán,
bố thí cho A-la-hán hướng, bố thí cho A-na-hàm, bố thí cho
A-na-hàm hướng, bố thí cho Tư-đà-hàm, bố thí cho Tư-đà-hàm
hướng, bố thí cho Tu-đà-hoàn, bố thí cho Tu-đà-hoàn hướng, bố
thí cho Tiên nhân ngoại đạo ly dục, bố thí cho người tinh tấn,
bố thí cho người không tinh tấn, bố thí cho súc sanh.
“Này A-nan, bố thí cho súc sanh được phước trăm
lần hơn.
“Bố thí cho người không tinh tấn được phước
ngàn lần hơn.
“Bố thí cho người tinh tấn được phước trăm ngàn
lần hơn.
“Bố thí cho Tiên nhân ngoại đạo ly dục được
phước ức trăm ngàn lần hơn.
“Bố thí cho vị Tu-đà-hoàn hướng được phước vô
lượng.
“Bố thí cho vị đắc Tu-đà-hoàn được phước vô
lượng.
“Bố thí cho vị Tư-đà-hàm hướng được phước vô
lượng.
“Bố thí cho vị đắc Tư-đà-hàm được phước vô
lượng.
“Bố thí cho vị A-na-hàm hướng được phước vô
lượng.
“Bố thí cho vị đắc a-na-hàm được phước vô
lượng.
“Bố thí cho vị A-la-hán hướng được phước vô
lượng.
“Bố thí cho vị đắc A-la-hán được phước vô
lượng.
“Huống nữa là bố thí cho Đức Như Lai, Bậc Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác.
“Đây là mười bốn loại bố thí riêng cho từng
người, sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức,
được đại quảng báo.
“Lại nữa, này A-nan, có bốn loại bố thí và chỉ
ba loại được thanh tịnh.
“Những gì là bốn? Có loại bố thí do thí chủ
thanh tịnh, không phải do người thọ nhận. Có loại bố thí do
người thọ nhận thanh tịnh, chứ không phải do thí chủ. Có loại
bố thí không phải do thí chủ thanh tịnh, cũng không phải do
người thọ nhận. Có loại bố thí do thí chủ thanh tịnh và người
thọ nhận cũng vậy.
“Này A-nan, thế nào gọi là loại bố thí do thí
chủ thanh tịnh, không phải do người thọ nhận? Là thí chủ thì
tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo[11].
Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả
báo của sự bố thí’. Còn người thọ nhận thì không tinh tấn, tu
hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo. Do
thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không
có quả báo của sự bố thí’. Như vậy gọi là loại bố thí do thí
chủ thanh tịnh, không phải do người thọ nhậïn.
“Này A-nan, thế nào gọi là loại bố thí do người
thọ nhận thanh tịnh, không phải do thí chủ? Là thí chủ thì
không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không
thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không
có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’. Còn người thọ
nhận thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có
quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí,
có quả báo của sự bố thí’. Như vậy gọi là loại bố thí do người
thọ nhận thanh tịnh, không phải do thí chủ.
“Này A-nan, thế nào gọi là loại bố thí không
phải do thí chủ thanh tịnh, cũng không phải do người thọ nhận?
Là thí chủ thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có
đời sau, không thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như
vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố
thí’. Và người thọ nhận cũng không tinh tấn, tu hành ác pháp,
không thấy có đời sau, không thấy có quả báo. Do thấy như vậy
nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo
của sự bố thí’. Như vậy gọi là loại bố thí không phải do thí
chủ thanh tịnh, cũng không phải do người thọ nhận.
“Này A-nan, thế nào gọi là loại bố thí do thí
chủ thanh tịnh và người thọ nhận cũng vậy? Là thí chủ thì tinh
tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do
thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo
của sự bố thí’. Và người thọ nhận cũng tinh tấn, tu hành diệu
pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên
nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’.
Như vậy gọi là loại bố thí do thí chủ thanh tịnh và người thọ
nhận cũng vậy.”
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:
- Người tinh
tấn thí người không tinh tấn
- Thí đúng
pháp được tâm hoan hỷ
- Vì tin có
nghiệp và quả báo
- Loại thí
này thí chủ thanh tịnh.
- Không tinh
tấn thí người tinh tấn
- Không đúng
pháp, không tâm hoan hỷ
- Vì không
tin nghiệp và quả báo
- Loại thí
này người nhận thanh tịnh.
- Người giải
đãi thí không tinh tấn
- Không đúng
pháp, không tâm hoan hỷ
- Vì không
tin nghiệp và quả báo
- Loại thí
này không được quảng báo
- Người tinh
tấn thí người tinh tấn
- Là đúng
pháp, được tâm hoan hỷ
- Vì tin có
nghiệp và quả báo
- Loại thí
này đạt được quảng báo.
- Kẻ nô tỳ
và kẻ bần cùng
- Hoan hỷ tự
mình làm bố thí
- Vì tin có
nghiệp, có quả báo
- Bố thí như
vậy thiên nhân khen.
- Khéo léo
giữ gìn cả thân miệng
- Đưa tay
cầu xin đúng Chánh pháp
- Người ly
dục thí người ly dục
- Đó chính
là tài thí đệ nhất.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các
Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M.142 Dakkhiāvibhaga-sutta. Hán, biệt dịch, No.84 Phật
Thuyết Phân Biệt Bố Thí Kinh, Tống Thi Hộ dịch.
-
[02] Thích-ki-sấu,
Ca-bệ-la-vệ, Ni-câu-loại thọ viên. Pāli: Sakkesu viharati
Kapilavatthusmi nigrodhārāme, sống những người họ Thích,
trong tinh xá (vườn) Nigrodha, Ca-tì-la-vệ.
-
[03] Ma-ha
Bá-la-xà-bát-đề Cù-đàm-di. Thường đọc theo phiên âm là Ma-ha
Ba-xà-ba-đề, dịch là Đại Ái Đạo; đoạn dưới dịch là Đại Sanh
Chủ. Xem kinh 116. Pāli: Mahā-Pajāpati Gotamī.
-
[04] Đại Sanh Chủ,
xem cht. trên.
-
[05] Tín tộc tánh
nam, tộc tánh nữ.
-
[06] Danh tánh
chủng, chỉ Tỳ-kheo chỉ có danh tự, chứ không có thực chất
(?). Pāli: Gotrabhuno.
-
[07] Tức bốn hành:
không an ổn, an ổn, điều phục và tịch tịnh. Chúng đệ tử Phật
hành ba loại sau. Tham chiếu Pāli, D. 33. Sagīti-suttanta:
catasso paipadā: akkhamā paipadā (không kham nhẫn), khamā
paipadā (kham nhẫn), damā paipadā (điều phục), samā paipadā
(tịch tĩnh).
-
[08] Trừ sự, trong
kinh 215, tám thắng xứ được gọi là tám trừ xứ, nhưng ở đây
trừ sự có thể chỉ cho bốn thông hành (xem kinh số 215 ở
sau).
-
[09] Hành lai du,
tham khảo Pháp Uẩn 3 (No.1537, Đại 26, trang 463 b), được
gọi là Pháp tùy, tức tám chi Thánh đạo. Chúng đệ tử của Phật
tùy thuận du lịch thiệp hành trong đó.
-
[10] Mười sự thành
tựu trên đây, trừ những thành tựu: nhu nhuyến, nhẫn và lạc,
còn lại có thể so với những đức tánh Tăng bảo thường được
tán thán, mà theo văn của Tập Dị và Pháp Uẩn như vầy: “Cụ
túc diệu hành, chất trực hành, pháp tùy pháp hành, hòa kỉnh
hành, tùy pháp hành”.
-
[11] Kiến lai kiến
quả; Xem Tập Dị (No.1536, Đại 26, trang 402): hữu y kiến,
hữu quả kiến.