-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan một mình trong tịnh
thất, tĩnh tọa tư duy, tâm khởi lên ý nghĩ này: “Những ai có
sợ hãi, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí
tuệ. Những ai vướng tai hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ ngu
si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ[02].”
Rồi Tôn giả A-nan vào lúc xế chiều, từ tĩnh tọa
dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi đứng sang
một bên, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, hôm nay con một mình trong tịnh
thất, tĩnh tọa tư duy, tâm khởi lên ý nghĩ này: “Những ai có
sợ hãi, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí
tuệ. Những ai vướng tai hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ ngu
si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ”.
Thế Tôn nói rằng:
“Thật vậy, A-nan, những ai có sợ hãi, tất cả
chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí tuệ. Những ai
vướng tai hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh,
chứ không phải từ trí tuệ.
“Này A-nan, cũng như lửa dậy từ bụi lau, bụi
cỏ, cháy luôn cả lầu các, điện đường. Này A-nan, cũng vậy,
những ai có sợ hãi, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ
không từ trí tuệ. Những ai vướng tai hoạn, ưu não, tất cả
chúng đều từ ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ.
“Này A-nan, trong quá khứ, nếu những ai có sợ
hãi, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí tuệ.
Nếu những ai vướng tai hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ ngu
si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ.
“Này A-nan, trong thời vị lai, nếu những ai có
sợ hãi, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí
tuệ. Nếu những ai vướng tai hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ
ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ.
“Này A-nan, trong thời hiện tại, những ai có sợ
hãi, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí tuệ.
Những ai vướng tai hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ ngu si mà
sanh, chứ không phải từ trí tuệ. “Này A-nan, đó gọi là, ngu
si có sợ hãi, trí tuệ không sợ hãi; ngu si có vấp ngã, tai
hoạn, ưu não; trí tuệ không có vướng tai hoạn, ưu não.
“Này A-nan, những ai có sợ hãi, vướng tai hoạn,
ưu não, tất cả chúng có thể tìm thấy nơi ngu si chứ không phải
nơi trí tuệ.
Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan buồn rầu, khóc lóc,
nước mắt chảy, chấp tay hướng về Đức Phật, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo ngu si, không
phải trí tuệ[03]?”
Thế Tôn đáp rằng:
“Này A-nan, nếu có Tỳ-kheo nào không biết giới,
không biết xứ, không biết nhân duyên, không biết thị xứ phi xứ[04].
A-nan, Tỳ-kheo như vậy là ngu si, không phải trí tuệ.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo như vậy là ngu si, không
phải là trí tuệ. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo trí
tuệ, không phải ngu si?”
Thế Tôn đáp rằng:
“A-nan, nếu Tỳ-kheo nào biết giới, biết xứ,
biết nhân duyên, biết thị xứ phi xứ; A-nan, Tỳ-kheo như vậy là
trí tuệ, không phải ngu si”.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo như vậy là trí tuệ,
không phải ngu si. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo biết
giới?”
Thế Tôn nói:
“Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như
thật về mười tám giới: nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới;
nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ
thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới,
xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới.
A-nan, thấy và biết như thật về mười tám giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về sáu
giới: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới,
thức giới. A-nan, thấy và biết như thật về sáu giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về sáu
giới: dục giới, nhuế giới, hại giới, vô dục giới, vô nhuế
giới, vô hại giới. A-nan, thấy và biết như thật về sáu giới
này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về sáu
giới: lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh
giới. A-nan, thấy và biết như thật về sáu giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về bốn
giới: thọ giới, tưởng giới, hành giới, thức giới. A-nan, thấy
và biết như thật về bốn giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba
giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. A-nan, thấy và biết như
thật về ba giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba
giới: sắc giới, vô sắc giới, diệt giới. A-nan, thấy và biết
như thật về ba giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba
giới: quá khứ giới, vị lai giới, hiện tại giới. A-nan, thấy và
biết như thật về ba giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba
giới: diệu giới, bất diệu giới, trung giới. A-nan, thấy và
biết như thật về ba giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba
giới: thiện giới, bất thiện giới, vô ký giới. A-nan, thấy và
biết như thật về ba giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về ba
giới: học giới, vô học giới, phi học vô học giới. A-nan, thấy
và biết như thật về ba giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về hai
giới: hữu lậu giới, vô lậu giới. A-nan, thấy và biết như thật
về hai giới này.
“Lại nữa, A-nan, thấy và biết như thật về: hữu
vi giới, vô vi giới. A-nan, thấy và biết như thật về hai giới
này.
“Này A-nan, thấy và biết như thật về sáu mươi
hai giới này. A-nan, Tỳ-kheo thấy và biết như thật về giới như
vậy”.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo biết giới như vậy. Nhưng
bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo biết xứ?”
Thế Tôn đáp:
“Nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về mười
hai xứ: nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thanh xứ, tỷ xứ, hương xứ,
thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ. A-nan, thấy
và biết như thật về mười hai xứ này. Này A-nan, Tỳ-kheo biết
xứ như vậy.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Tỳ-kheo biết xứ như vậy. Nhưng bạch Thế Tôn,
thế nào là Tỳ-kheo biết nhân duyên[05]?”
Thế Tôn đáp:
“Nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về nhân
duyên và pháp khởi từ nhân duyên, rằng ‘Nhân cái này có, cái
kia có; cái này không, cái kia không. Cái này sanh, cái kia
sanh; cái này diệt cho nên cái kia diệt’. Tức là duyên vô minh
có hành..., cho đến duyên sanh có già, chết. Nếu vô minh diệt
thì hành diệt, cho đến sanh diệt thì già, chết diệt. A-nan,
Tỳ-kheo biết nhân duyên như vậy.
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo biết nhân duyên như vậy.
Nhưng, bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo biết thị xứ phi xứ[06]?”
Thế Tôn đáp:
“Nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về xứ là
xứ, phi xứ là phi xứ. Này A-nan, nếu trong đời có hai vị
Chuyển luân vương cùng cai trị, trường hợp này hoàn toàn không
có. Nếu trong đời có một Chuyển luân vương cai trị, trường hợp
này tất có.
“Này A-nan, nếu trong đời có hai Đức Như Lai,
trường hợp này hoàn toàn không. Nếu trong đời này có một Đức
Như Lai, trường hợp này tất có.
“Này A-nan, nếu một người đã thấy đế lý[07]
mà có ý sát hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá hoại Thánh chúng,
ác tâm với Phật, làm Như Lai đổ máu, trường hợp này hoàn toàn
không có. Nếu một người phàm phu cố ý hại cha mẹ, giết
A-la-hán, phá hoại Thánh chúng, ác tâm với Phật, làm Như Lai
đổ máu, trường hợp này tất có xảy ra.
“A-nan, nếu một người đã thấy đế lý mà cố tình
phạm giới, xả giới, bỏ đạo, trường hợp này hoàn toàn không có.
Nếu một người phàm phu cố ý phạm giới, xả giới, bỏ đạo, trường
hợp này tất có.
“Nếu có một người đã thấy đế lý mà xả ly nội
đạo này, tôn thờ ngoại đạo, mong cầu phước điền ở đó, trường
hợp này hoàn toàn không có. Nếu một người phàm phu xả ly nội
đạo này, tôn thờ ngoại đạo, mong cầu phước điền ở đó, trường
hợp này tất có.
“Này A-nan, nếu một người đã thấy đế lý mà theo
các Sa-môn, Phạm chí khác nói như vầy: ‘Các ngài thấy điều
đáng thấy, biết điều đáng biết’, trường hợp này hoàn toàn
không có. Nếu người phàm phu theo các Sa-môn, Phạm chí khác,
nói rằng: ‘Các ngài thấy điều đáng thấy, biết điều đáng biết’,
trường hợp này tất có.
“Này A-nan, nếu người đã thấy đế lý mà còn tin
bói toán, hỏi cát hung, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu
người phàm phu tin bói toán, hỏi cát hung, trường hợp này tất
có.
“Này A-nan, nếu người đã thấy đế lý theo các
Sa-môn, Phạm chí khác mà bói toán, hỏi cát hung, trường hợp
này hoàn toàn không có. Nếu người phàm phu theo các Sa-môn,
Phạm chí khác mà bói toán, hỏi cát hung, trường hợp này tất
có.
“A-nan, nếu ngườøi thấy đế lý mà phát sanh sự
cực khổ, rất khổ, trọng đại khổ, không thể ái, không thể lạc,
không thể tư, không thể niệm, cho đến đoạn mạng, bèn xả ly nội
đạo này, cầu cứu ở ngoại đạo. Hoặc có Sa-môn, Phạm chí trì một
câu, hai câu, ba câu, bốn câu, nhiều câu, trăm ngàn câu, ‘Mong
giải trừ sự khổ cho tôi’, đó là đi tìm sự khổ, tập khởi sự
khổ, dẫn đến sự khổ mà nói là dứt khổ, trường hợp này hoàn
toàn không có. Nếu một người phàm phu xả ly nội đạo này mà cầu
cứu ngoại đạo, hoặc có Sa-môn, Phạm chí trì chú một câu, hai
câu, ba câu, bốn câu, nhiều câu, trăm ngàn câu, ‘Mong giải trừ
sự khổ cho tôi’, đó là đi tìm sự khổ, tập khởi sự khổ, dẫn đến
sự khổ, mà nói là dứt khổ, trường hợp này tất có.
“A-nan, nếu người thấy đế lý mà tái sanh lần
thứ tám, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu một người phàm
phu tái sanh lần thứ tám, trường hợp này tất có.
“Này A-nan, nếu ai có thân ác hành, khẩu và ý
ác hành, do duyên này thân hoại mạng chung đi đến thiện xứ,
sanh lên cõi trời, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai
có thân ác hành, khẩu và ý ác hành, do duyên này thân hoại
mạng chung đi đến ác xứ, sanh trong địa ngục, trường hợp này
tất có.
“A-nan, nếu ai có thân diệu hành, khẩu và ý
diệu hành, do duyên này thân hoại mạng chung đi đến ác xứ,
sanh trong địa ngục, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai
có thân diệu hành, khẩu và ý diệu hành, do duyên này thân hoại
mạng chung đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời, trường hợp này
tất có.
“A-nan, nếu ai có thân ác hành, khẩu và ý ác
hành mà thọ lạc báo, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai
có thân ác hành, khẩu và ý ác hành mà thọ khổ báo, trường hợp
này tất có.
“A-nan, nếu ai có thân diệu hành, khẩu và ý
diệu hành mà thọ khổ báo, trường hợp này hoàn toàn không có.
Nếu ai có thân diệu hành, khẩu và ý diệu hành mà thọ lạc báo,
trường hợp này tất có.
“Này A-nan, nếu ai không đoạn trừ năm triền
cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, mà tâm có thể an trụ
vững vàng trên bốn niệm xứ, trường hợp này hoàn toàn không có.
Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu
kém mà tâm an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ, trường hợp này
tất có.
“A-nan, nếu ai không đoạn trừ năm triền cái,
những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm không an trụ vững
vàng trên bốn niệm xứ mà muốn tu bảy giác chi, trường hợp này
hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ
làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm an trụ vững vàng trên bốn niệm
xứ mà tu bảy giác ý, trường hợp này tất có.
“A-nan, nếu ai không đoạn trừ năm triền cái,
những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm không an trụ vững
vàng trên bốn niệm xứ, không tu bảy giác ý mà muốn chứng đắc
Vô thượng chánh đẳng giác, trường hợp này hoàn toàn không có.
Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu
kém, an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ, tu bảy giác ý, chứng
đắc Vô thượng chánh đẳng giác, trường hợp này tất có.
“A-nan, nếu ai không đoạn trừ năm triền cái,
những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm không an trụ vững
vàng trên bốn niệm xứ, không tu bảy giác ý, không chứng đắc Vô
thượng chánh đẳng giác mà đạt đến khổ biên, trường hợp này
hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ
làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ,
tu bảy giác ý, chứng đắc Vô thượng chánh đẳng giác, đạt đến
khổ biên, trường hợp này tất có.
“Này A-nan, Tỳ-kheo biết thị xứ, phi xứ như
vậy”.
Lúc bấy giờ Tôn giả A-nan chấp tay hướng về Đức
Phật bạch:
“Bạch Thế Tôn, kinh này tên gọi là gì? Nên
phụng trì như thế nào?”
Thế Tôn đáp:
“Này A-nan, hãy thọ trì pháp này, là đa giới,
pháp giới, cam lộ giới, đa cổ, pháp cổ, cam lộ cổ, là pháp
kính, là tứ phẩm[08].
Do đó kinh này được gọi là Đa Giới”.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các
Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M.115 Bahudhātuka-sutta. Đối chiếu Pháp Uẩn 10
(No.1537, Đại 26 trang 501b - 505a).
-
[02] Bản Hán này và
Pháp Uẩn tương đương. Bản Pāli, đây là lời Phật nói với các
Tỳ-kheo.
-
[03] Pháp Uẩn và
Pāli giống nhau về câu hỏi này: đến mức độ nào để được liệt
vào loại ngu phu?
-
[04] Thị xứ phi xứ:
trường hợp đúng và trường hợp sai.
-
[05] Nhân duyên,
đây chỉ duyên khởi. Pāli: paiccasamuppada.
-
[06] Xem cht.4
trên. Pāli: thānāthānakusala (xứ phi xứ thiện xảo).
-
[07] Kiến đế nhân,
đây chỉ vị Tu-đà-hoàn.
-
[08] Tứ phẩm, Pháp
Uẩn: tứ chuyển. Pāli: Catuparivatto.