-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Câu-lâu-lấu,
ở Kiếm Ma-sắt-đàm, đô ấp Câu-lâu.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Có một con đường khiến chúng sanh được thanh
tịnh, xả bỏ ưu sầu, than khóc, dứt hết buồn khổ ảo não, chứng
được như pháp. Đó là Thánh chánh định, có tập, có trợ[02]
và cũng có cụ[03],
bao gồm bảy chi.
“Thế nào là Thánh chánh định nói tập, nói trợ
và nói cụ gồm bảy chi? Đó là, chánh kiến, chánh chí, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm.
Nếu do bảy chi này mà có tập, có trợ và có cụ[04],
khéo hướng đến tâm chuyên nhất[05],
đó gọi là Thánh chánh định có tập, có trợ và có cụ. Vì sao
vậy? Chánh kiến sanh chánh chí, chánh chí sanh chánh ngữ,
chánh ngữ sanh chánh nghiệp, chánh nghiệp sanh chánh mạng,
chánh mạng sanh chánh phương tiện, chánh phương tiện sanh
chánh niệm, chánh niệm sanh chánh định. Hiền thánh đệ tử tâm
được chánh định như vậy lập tức dứt sạch dâm, nộ, si. Hiền
thánh đệ tử chánh tâm giải thoát như thế, lập tức biết như
thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã
làm xong, không còn tái sanh nữa’.
“Trong các chi ấy, chánh kiến đứng ngay hàng
đầu. Nếu thấy rõ tà kiến là tà kiến thì đó gọi là chánh kiến.
Nếu thấy rõ chánh kiến là chánh kiến thì đó cũng gọi là chánh
kiến.
“Thế nào là tà kiến?
“Đó là cho rằng không có bố thí, không có trai
tự, không có chú thuyết, không có thiện, ác nghiệp, không có
quản báo của thiện, ác nghiệp, không có đời này đời sau, không
có cha, không có mẹ, không có bậc chân nhân ở trên đời đi đến
thiện xứ, khéo ra khỏi cõi này, khéo hướng đến cõi kia, tự
tri, tự giác, trong đời này hay đời sau mà tự tác chứng, thành
tựu an trụ. Như vậy gọi là tà kiến.
“Thế nào gọi là chánh kiến?
“Đó là thấy rằng có bố thí, có trai tự, có chú
thuyết, có thiện, ác nghiệp, có quả báo của thiện, ác nghiệp,
có đời này đời sau, có cha có mẹ, có bậc chân nhân ở trên đời
đi đến thiện xứ, khéo ra khỏi cõi này, khéo hướng đến cõi kia,
trong đời này hay đời sau tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành
tựu an trụ. Như vậy gọi là chánh kiến.
“Đó gọi rằng thấy tà kiến là tà kiến thì đó là
chánh kiến. Thấy chánh kiến là chánh kiến; đó cũng gọi là
chánh kiến. Khi biết rõ như thế, liền phải cầu học, muốn đoạn
trừ tà kiến, thành tựu chánh kiến. Đó gọi là chánh phương
tiện. Tỳ-kheo suy niệm về sự đoạn trừ nơi tà kiến, thành tựu
chánh kiến. Đó gọi là chánh niệm. Cả ba chi này đi theo kiến
phương tiện, do phương tiện của kiến. Vì thế cho nên bảo chánh
kiến là đứng ngay ở hàng đầu.
“Nếu thấy tà chí là tà chí, thì đó là chánh
chí. Nếu thấy chánh chí là chánh chí thì đó cũng là chánh chí.
“Thế nào gọi là tà chí? Đó là niệm dục, niệm
nhuế, niệm hại, được gọi là tà chí.
“Thế nào gọi là chánh chí? Đó là niệm vô dục,
niệm vô nhuế, niệm vô hại, được gọi là chánh chí.
“Thấy rõ tà chí là tà chí, thì đó là chánh chí.
Thấy rõ chánh chí là chánh chí, thì đó cũng là chánh chí. Biết
như thế rồi, liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà chí,
thành tựu chánh chí. Đó gọi là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy
niệm sự đoạn trừ nơi tà chí, thành tựu chánh chí. Đó gọi là
chánh niệm.
“Tất cả ba chi này đi theo chánh chí, do phương
tiện của kiến, vì thế nên bảo chánh kiến đứng hàng đầu.
“Nếu thấy rõ tà ngữ là tà ngữ, thì đó là chánh
ngữ. Nếu thấy chánh ngữ là chánh ngữ, thì đó cũng chính là
chánh ngữ.
“Sao gọi là tà ngữ? Nói dối, nói hai lưỡi, lời
nói thô ác, lời nói thêu dệt, đó gọi là tà ngữ.
“Thế nào là chánh ngữ? Xa lìa sự nói dối, nói
hai lưỡi, nói lời thô ác, thêu dệt, đó gọi là chánh ngữ. Đó
cũng gọi là thấy tà ngữ là tà ngữ, thì gọi là chánh ngữ. Thấy
chánh ngữ là chánh ngữ, cũng gọi là chánh ngữ. Biết như vậy
rồi liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà ngữ, thành tựu
chánh ngữ. Đó là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm sự đoạn
trừ nơi tà ngữ, thành tựu chánh ngữ, gọi là chánh niệm. Cả ba
chi này đi theo chánh ngữ, do phương tiện của kiến, vì thế nên
bảo chánh kiến đứng hàng đầu.
“Nếu thấy tà nghiệp là tà nghiệp, thì đó là
chánh nghiệp. Nếu thấy chánh nghiệp là chánh nghiệp, thì đó
cũng chính là chánh nghiệp.
“Thế nào gọi là tà nghiệp? Sát sanh, trộm cướp,
tà dâm, gọi là tà nghiệp. Thế nào gọi là chánh nghiệp? Lìa sát
sanh, trộm cướp, tà dâm, gọi là chánh nghiệp. Đó gọi rằng thấy
tà nghiệp là tà nghiệp thì gọi là chánh nghiệp. Thấy chánh
nghiệp là chánh nghiệp, cũng gọi là chánh nghiệp. Biết như thế
rồi liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà nghiệp, thành tựu
chánh nghiệp, gọi là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm sự
đoạn trừ nơi tà nghiệp, thành tựu chánh nghiệp, gọi là chánh
niệm. Cả ba chi này đi theo chánh nghiệp, do phương tiện của
kiến, vì thế nên bảo chánh kiến đứng hàng đầu.
“Nếu thấy tà mạng là tà mạng, thì đó gọi là
chánh mạng. Nếu thấy chánh mạng là chánh mạng, thì cũng gọi là
chánh mạng.
“Thế nào là tà mạng? Nếu có sự mong cầu mà
không mãn ý; bằng nhiều loại chú thuật súc sanh, bằng tà mạng
mà nuôi sống. Nó không như pháp mà tìm kiếm áo chăn, mà lại
bằng phi pháp; không như pháp mưu cầu ẩm thực, giường chõng,
thuốc thang, các tư cụ sanh hoạt, mà bằng phi pháp. Đó là tà
mạng. Thế nào là chánh mạng? Nếu không có sự mong cầu không
mãn ý; không dùng các thứ chú thuật, tà mạng để nuôi sống.
Người ấy như pháp mà tìm kiếm áo chăn, thì đó là pháp vậy; như
pháp mà mưu cầu ẩm thực, giường chõng, thuốc thang, các tư cụ
sanh hoạt, thì đó là pháp vậy. Đó gọi là chánh mạng. Đó là nói
rằng, thấy tà mạng là tà mạng thì gọi là chánh mạng; thấy
chánh mạng là chánh mạng, cũng gọi là chánh mạng. Kia biết như
vậy rồi, bèn cầu học để đoạn trừ tà mạng, thành tựu chánh
mạng; đó là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm nơi sự đoạn
trừ tà mạng, thành tựu chánh mạng, đó gọi là chánh niệm. Ba
chi này đi theo chánh mạng, do phương tiện của kiến, vì thế
nên bảo chánh kiến đứng hàng đầu.
“Thế nào là chánh phương tiện? Tỳ-kheo để đoạn
trừ ác pháp đã sanh mà phát khởi ý dục tìm cầu phương tiện,
tinh cần dốc tâm trừ diệt; vì để ác pháp chưa sanh thì không
sanh, nên phát khởi ý dục tìm cầu phương tiện, tinh cần dốc
tâm mà trừ diệt; để pháp thiện chưa sanh thì sanh nên phát
khởi ý dục tìm cầu phương tiện, tinh cần dốc tâm trừ diệt; để
thiện pháp đã sanh tồn tại, không bị quên, không thối thất,
càng lúc càng phát triển rộng rãi, tu tập biến mãn đầy đủ, nên
phát khởi ý dục tìm cầu phương tiện, tinh cần dốc tâm mà trừ
diệt; đó gọi là chánh phương tiện.
“Thế nào là chánh niệm? Tỳ-kheo quán nội thân
như thân; quán, cho đến, thọ, tâm, pháp như pháp; đó gọi là
chánh niệm.
“Thế nào là chánh định? Tỳ-kheo ly dục, ly ác
bất thiện pháp, cho đến, chứng đắc đệ Tứ thiền, thành tựu và
an trụ; đó gọi là chánh định.
“Thế nào là chánh giải thoát? Tỳ-kheo, tâm giải
thoát khỏi dục, tâm giải thoát khỏi nhuế, si; đó gọi là chánh
giải thoát. Thế nào là chánh trí? Tỳ-kheo biết tâm giải thoát
dục, tâm giải thoát nhuế, si; gọi là chánh trí.
“Đó là bậc hữu học thành tựu tám chi. Lậu tận
A-la-hán thành tựu mười chi.
“Thế nào là hữu học thành tựu tám chi? Là học
từ chánh kiến cho đến chánh định. Đó là hữu học thành tựu tám
chi.
“Thế nào là lậu tận A-la-hán thành tựu mười
chi? Đó là vô học chánh kiến cho đến vô học chánh trí. Đó là
lậu tận A-la-hán thành tựu mười chi. Vì sao vậy? Vì chánh kiến
là đoạn trừ tà kiến. Nếu nhân tà kiến sanh vô lượng ác pháp
bất thiện, vị ấy phải đoạn trừ nó. Nếu nhân chánh kiến sanh ra
vô lượng thiện pháp, vị ấy tu tập được sung mãn. Cho đến chánh
trí đoạn trừ tà trí. Nếu nhân tà trí sanh vô lượng pháp ác bất
thiện, vị ấy đoạn trừ nó. Nếu nhân chánh trí sanh vô lượng
pháp thiện, vị ấy tu tập để được sung mãn.
“Đó là hai mươi phẩm thiện và hai mươi phẩm bất
thiện. Tức là tuyên thuyết bốn mươi đại pháp phẩm được chuyển
vận nơi Phạm luân mà không một ai có thể chế ngự mà bài xích,
dù là Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm, và các loại thế
gian khác.
“Đối với bốn mươi đại pháp phẩm mà Ta tuyên
thuyết được chuyển vận nơi Phạm luân ấy, không một ai có thể
chận đứng, dù là Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên và Ma, Phạm, và
các loại thế gian khác; mà nếu có Sa-môn, Phạm chí nào phi
bác, người ấy đối với như pháp có mười trường hợp đáng bị chỉ
trích.
“Những gì là mười? Hoặc chê bai chánh kiến,
khen ngợi tà kiến. Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào có tà kiến, mà
hoặc cúng dường vị ấy, hoặc tán thán vị ấy, thì đối với bốn
mươi đại pháp phẩm mà Ta tuyên thuyết được chuyển vận nơi Phạm
luân, không một ai có thể chận đứng, dù là Sa-môn, Phạm chí,
chư Thiên, Ma, Phạm và các loại thế gian khác ấy, mà nếu có
Sa-môn, Phạm chí nào phi bác, vị ấy đối với như pháp đây là
trường hợp thứ nhất đáng bị chỉ trích.
“Hoặc chê bai, cho đến chánh trí, khen ngợi tà
trí. Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào có tà trí mà hoặc cúng dường
vị ấy, hoặc tán thán vị ấy, thì đối với bốn mươi đại pháp phẩm
mà Ta tuyên thuyết được chuyển vận nơi Phạm luân, không một ai
có thể chận đứng, dù là Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm
và các loại thế gian khác ấy, mà nếu có Sa-môn, Phạm chí nào
phi bác, vị ấy đối với như pháp đây trường hợp thứ mười đáng
bị chỉ trích.
“Đó gọi là đối với như pháp có mười trường hợp
đáng bị chỉ trích. Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào đối với bốn
mươi đại pháp phẩm mà Ta tuyên thuyết, được chuyển vận nơi
Phạm luân, không một ai có thể chận đứng, dù là Sa-môn, Phạm
chí, chư Thiên, Ma, Phạm, và các loại thế gian khác ấy, mà phi
bác; thì người ấy đối với như pháp có mười điều bị chỉ trích.
“Lại có những Sa-môn, Phạm chí khác sống ngồi
chồm hổm[06],
thuyết giảng sự ngồi chồm hổm. Sống vô sở hữu, thuyết giảng vô
sở hữu, thuyết vô nhân, thuyết vô tác, thuyết vô nghiệp; nghĩa
là đối với thiện ác được tạo tác bởi người này hay người kia
mà chủ trương đoạn tuyệt, phá hoại ở kia hay ở đây, những
người ấy đối với bốn đại pháp phẩm mà Ta tuyên thuyết được
chuyển vận nơi Phạm luân, không một ai có thể chận đứng, dù là
Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm và các loại thế gian
khác, những người ấy cũng có sự chỉ trích, lo lắng, sợ hãi.”
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli M.117 Mahā-cattārīsaka sutta.
-
[02] Hữu tập hữu
trợ. Pāli: sa-upanisa, cùng với sự thân cận, hay phương
tiện, sa-parikkhāra cùng với sự hỗ trợ hay tư trợ.
-
[03] Hữu cụ. Bản
Pāli không có từ tương xứng, nhưng nội dung tương đồng.
Nghĩa là một chi Thánh đạo này bao gồm bảy chi Thánh đạo còn
lại.
-
[04] Nhờ bảy chi
này làm phương tiện và hỗ trợ cho chánh định.
-
[05] Tâm đắc nhất;
trạng thái tập trung vào một điểm. Pāli: cittassa ekaggatā,
cũng dịch là tâm nhất cảnh tánh.
-
[06] Tồn cứ. Pāli:
Okkalā Vessa-Bhanna, những người ở Ukkalā, Vassa và Bhanna,
được coi như theo chủ trương vô nhân (ahetuvāda), vô tác
(akiriyavāda), và vô sở hữu (natthikavādā). Bản Hán đọc
Ukkalā như là Ukkūla, ngồi chồm hổm.