-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, rừng Thắng
lâm, vườn Cấp cô độc, cùng với đại chúng Tỳ-kheo an cư trong
mùa mưa.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Này các Tỳ-kheo, Ta chỉ ăn trong một lần ngồi
[02]. Do chỉ ăn trong một ăn trong một lần ngồi, Ta
vô vi, vô cầu, không có các tật bệnh, thân thể nhẹ nhàng thoải
mái, khí lực khang cường, an ổn khoái lạc. Các ngươi cũng nên
chỉ ăn trong một lần ngồi; do chỉ ăn trong một lần ngồi, các
ngươi sẽ vô vi, vô cầu, không có các tật bệnh, thân thể nhẹ
nhàng thoải mái, khí lực khang cường an ổn khoái lạc.
Lúc bấy giờ Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi
[03], cũng ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy,
trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về Đức Phật bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con không thể kham nổi, sự việc
ăn chỉ trong một lần ngồi. Vì sao vậy? Vì nếu con chỉ ăn trong
một lần ngồi thì chẳng khác nào làm một việc chưa xong, cảm
thấy ảo não, trong lòng hối tiếc. Bạch Thế Tôn, vì vậy con
không thể kham nổi sự việc ăn chỉ trong một lần ngồi.”
Đức Thế Tôn nói rằng:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi Ta nhận lời mời, ngươi
cũng đi theo Ta và nếu Ta chấp nhận cho ngươi mang đồ ăn được
mời ấy đi nhưng chỉ ăn trong một lần ngồi, như vậy cũng có thể
sống được an lành
[04] .”
Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi lại bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, dù vậy con cũng không thể kham
nổi sự việc chỉ ăn trong một lần ngồi. Vì sao vậy? Vì nếu con
chỉ ăn trong một lần ngồi, chẳng khác nào làm một việc chưa
xong, cảm thấy ảo não trong lòng hối tiếc. Bạch Thế Tôn, vì
vậy con không thể kham nổi sự việc chỉ ăn trong một lần ngồi.”
Đức Thế Tôn đến ba lần nói với các Tỳ-kheo
rằng:
“Ta chỉ ăn trong một lần ngồi. Do ăn chỉ trong
mọt lần ngồi, Ta vô vi, vô cầu, không có các tật bệnh, thân
thể nhẹ nhàng thoải mái, khí lực khang cường, an ổn khoái lạc.
Các ngươi cũng nên học chỉ ăn trong một lần ngồi. Do ăn chỉ
trong một lần ngồi, các ngươi sẽ vô vi, vô cầu, không có các
tật bệnh, thân thể nhẹ nhàng thoải mái, khí lực khang cường,
an ổn khoái lạc.”
Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi cũng đến ba lần từ chỗ
ngồi đứng dậy trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về Đức Thế
Tôn mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con không thể kham nổi sự việc
ăn chỉ trong một lần ngồi. Vì sao vậy? Vì nếu con ăn chỉ trong
một lần ngồi thì không khác nào làm một công việc chưa xong,
cảm thấy ảo não, trong lòng hối tiếc. Bạch Thế Tôn, vì vậy con
không thể kham nổi việc ăn chỉ trong một lần ngồi.”
Đức Thế Tôn cũng đến ba lần nói rằng:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi Ta nhận lời mời, ngươi
cũng đi theo; và nếu ta chấp thuận cho ngươi mang đồ ăn được
mời ấy đi, nhưng ăn chỉ trong một lần ngồi, như vậy cũng có
thể sống được an lành.”
Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi cũng đến lần thứ ba bạch
rằng:
“Bạch Thế Tôn, mặc dù như vậy, nhưng con cũng
không thể kham nổi sự việc ăn chỉ trong một lần ngồi. Vì sao
vậy? Vì nếu con ăn chỉ trong một lần ngồi thì chẳng khác nào
làm việc một công việc chưa xong, cảm thấy ảo não, trong lòng
hối tiếc. Bạch Thế Tôn, vì vậy con không thể kham nổi sự việc
ăn chỉ trong một lần ngồi.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn thiết lập giới Nhất tọa
thực cho chúng Tỳ-kheo
[05] Chúng Tỳ-kheo thảy đều vâng giữ học giới và
các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Chỉ trừ Tôn giả
Bạt-đà-hòa-lợi tuyên bố là không thể kham nổi, từ chỗ ngồi
đứng dậy và bỏ đi. Vì sao vậy? Vì không học theo giới cụ túc
[06] và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế
Tôn. Rồi Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi suốt trong một mùa mưa ấy lánh
mình không gặp Đức Thế Tôn. Vì sao vậy? Vì không học theo giới
cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới Thế Tôn.
Vào một lúc, chư Tỳ-kheo làm y cho Đức Phật, để
sau ba tháng an cư mùa mưa tại nước Xá-vệ và khâu vá lại y áo
xong, Đức Thế Tôn sẽ thu vén y, ôm bát mà du hành trong nhân
gian. Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi được nghe rằng chư Tỳ-kheo đang
làm y cho Đức Phật để sau ba tháng an cư mùa mưa tại nước
Xá-vệ và khâu vá lại các y áo xong, Đức Thế Tôn sẽ thu vén y,
ôm bát mà du hành trong nhân gian. Sau khi nghe như vậy, Tôn
giả Bạt-đà-hòa-lợi bèn đi đến chỗ các Tỳ-kheo. Chư Tỳ-kheo từ
xa trông thấy Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi đang đi đến, bèn nói như
vầy:
“Hiền giả Bạt-đà-hòa-lợi, nên biết ở đây chúng
tôi đang làm y cho Thế Tôn, để sau ba tháng an cư vào mùa mưa
tại nước Xá-vệ, và khâu vá y xong Đức Thế Tôn sẽ thu vén y, ôm
bát mà du hành trong nhân gian. Này Bạt-đà-hòa-lợi, hãy tự
khéo gìn giữ trong trường hợp này, đừng để về sau xảy ra nhiều
sự phiền nhọc.”
Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi nghe những lời ấy xong,
liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, bạch
rằng:
“Bạch Thế Tôn, thật sự con đã sai lầm! Thật sự
con đã sai lầm! Con như ngu, như si, như khờ dại, như bất
thiện. Vì sao? Vì Thế Tôn thiết lập giới Nhất tọa thực cho
chúng Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo thảy đều vâng giữ học giới và các
pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Duy chỉ con tuyên bố
là không kham nổi, từ chỗ ngồi đứng dậy và bỏ đi. Vì sao vậy?
Vì không học theo giới cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh
giới của Thế Tôn.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc ấy ngươi không biết
rằng, ‘Một số đông các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đang an cư mùa
mưa tại nước Xá-vệ, những vị ấy biết ta
[07], thấy ta, rằng ‘Có một Tỳ-kheo tên là
Bạt-đà-hòa-lợi, đệ tử của Thế Tôn, không học theo giới cụ túc
và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.’ Này
Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ ngươi không biết có sự kiện như
vậy chăng?
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ ngươi không
biết rằng, ‘Một số đông Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di tại nước Xá-vệ,
những người này biết ta, gặp ta, rằng ‘Có một Tỳ-kheo tên là
Bạt-đà-hòa-lợi, đệ tử của Thế Tôn không học theo giới cụ túc,
và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.’ Này
Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ ngươi không biết có sự kiện như
vậy chăng?
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, ngươi lúc ấy không biết
rằng, ‘Một số đông các Sa-môn Phạm chí dị học đang an cư mùa
mưa tại nước Xá-vệ, những vị này biết ta, thấy ta, rằng ‘Có
một Tỳ-kheo tên là Bạt-đà-hòa-lợi, đệ tử của Sa-môn Cù-đàm,
một bậc danh đức, nhưng không học theo giới cụ túc và các pháp
vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.’ Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc
bấy giờ ngươi không biết có sự kiện như vậy chăng?
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, nếu có Tỳ-kheo chứng câu
giải thoát
[08]mà ta nói với vị ấy rằng, ‘Ngươi hãy xuống vũng
bùn!’,
[09] Này Bạt-đà-hòa-lợi, ý ngươi nghĩ sao? Ta dạy
Tỳ-kheo ấy như vậy Tỳ-kheo ấy há thể đứng im hay tránh đi chỗ
khác chăng?”
Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Thế Tôn nói rằng:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, giả sử không phải là
Tỳ-kheo câu giải thoát nhưng là Tỳ-kheo tuệ giải thoát
[10]; hoặc giả sử không phải là Tỳ-kheo tuệ giải
thoát, nhưng Tỳ-kheo thân chứng.
[11]; hoặc giả sử không phải Tỳ-kheo thân chứng,
nhưng là kiến đáo,
[12]; hoặc giả sử không phải là kiến đáo nhưng là
tín giải thoát,
[13]; hoặc giả sử không phải là tín giải thoát
nhưng là tùy pháp hành,
[14]; hoặc giả sử không phải là tùy pháp hành,
nhưng là tùy ý hành.
[15], mà ta nói với vị Tỳ-kheo ấy rằng, ‘Ngươi hãy
xuống vũng bùn’. Này Bạt-đà-hòa-lợi, ý ngươi nghĩ sao? Ta dạy
Tỳ-kheo ấy như vậy, Tỳ-kheo ấy há có thể đứng im hay tránh đi
nơi khác chăng?”
Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi đáp rằng:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Đức Thế Tôn nói rằng:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, ý ngươi nghĩ sao? Lúc bấy
giờ ngươi đã chứng đắc tùy tín hành, tùy pháp hành, kiến đáo,
thân chứng, tuệ giải thoát hay câu giải thoát chăng?”
Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi đáp:
“Bạch Thế Tôn, không phải vậy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, lúc bấy giờ ngươi không
phải như ngôi nhà trống chăng?”
Lúc ấy Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi bị Thế Tôn khiển
trách ngay mặt, trong lòng rầu rĩ, cúi đầu im lặng, không còn
lời để biện bạch, suy nghĩ mông lung. Đức Thế Tôn sau khi
khiển trách Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi ngay mặt rồi, lại muốn làm
cho Tôn giả được hoan hỷ bèn nói rằng:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, ngươi lúc bấy giờ đối với
Ta mà không có sự tịch tịnh của sự tín pháp, không có sự tịch
tịnh của ái pháp, không có sự tịch tịnh của tĩnh pháp.
[16]. Vì sao vậy? Trong lúc ta thiết lập giới Nhất
tọa thực cho chúng Tỳ-kheo; chúng Tỳ-kheo thảy đều vâng giữ
học giới và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Duy
chỉ riêng ngươi tuyên bố là không kham nổi, và từ chỗ ngồi
đứng dậy bỏ đi. Vì sao vậy? Vì không học theo giới cụ túc, và
các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.”
Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi bạch rằng:
“Quả thật như vậy. Vì sao vậy? Vì trong lúc Thế
Tôn thiết lập học giới cho chúng Tỳ-kheo; chúng Tỳ-kheo thảy
đều vâng giữ, duy chỉ riêng con tuyên bố là không kham nổi,
rồi từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi. Vì sao vậy? Vì không học theo
giới cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn.
Cúi mong Thế Tôn nhận sự hối lỗi của con. Con đã thấy lỗi lầm
rồi sẽ tự mình ăn năn hối cải, và từ nay trở đi sẽ giữ gìn
không tái phạm nữa.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, như vậy, ngươi thật sự như
ngu, như si, như khờ dại, như bất thiện. Vì sao vậy? Vì trong
lúc ta thiết lập học giới Nhất tọa thực cho chúng Tỳ-kheo;
chúng Tỳ-kheo thảy đều vâng giữ học giới và các pháp vi diệu
trong cảnh giới của Thế Tôn, chỉ riêng ngươi tuyên bố là không
kham nổi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi. Vì sao vậy? Vì ngươi
không học theo giới cụ túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới
của Thế Tôn.
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, nếu ngươi có lỗi lầm, đã
thấy và tự hối từ nay về sau gìn giữ, không thể để tái phạm.
Này Bạt-đà-hòa-lợi, như vậy ở trong Thánh pháp luật có ích lợi
chớ không tổn hại. Nếu ngươi có lầm lỗi, đã thấy và tự hối, từ
nay về sau gìn giữ không để tái phạm nữa, thì này
Bạt-đà-hòa-lợi, ý ngươi nghĩ sao, nếu có Tỳ-kheo không học
theo giới cụ túc,
[17] vị ấy sống trong rừng vắng, dưới gốc cây, hoặc ở
trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh sự dữ, không
có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa. Vị ấy sau khi sống tại
một nơi xa vắng, tu hành tinh cần để chứng đắc tăng thượng
tâm, hiện pháp lạc trụ
[18],. Nhưng vị ấy sống tại nơi xa vắng, tu hành
tinh cần như vậy mà chê bai học giới của Thế Tôn
[19], xuyên tạc chê bai chư Thiên và các phạm hạnh
có trí và cũng xuyên tạc học giới của chính mình. Vị ấy sau
khi xuyên tạc học giới của Thế Tôn, xuyên tạc chư Thiên và các
vị Phạm hạnh có trí, và cũng xuyên tạc học giới của chính mình
rồi, bèn không sanh tâm hoan duyệt; do không sanh tâm hoan
duyệt nên không sanh hỷ; do không sanh hỷ nên thân không khinh
an; do thân không khinh an, nên không cảm thọ lạc; do không
cảm thọ lạc, nên tâm bất định. Này Bạt-đà-hòa-lợi, Hiền Thánh
đệ tử khi tâm bất định, thì không thể thấy như thật, biết như
thật.
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, ý ngươi nghĩ sao, nếu có
Tỳ-kheo học giới cụ túc, sống trong rừng vắng, trong rừng sâu,
dưới gốc cây trên sườn cao, vắng bặt không tiếng động, xa lánh
không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa. Vị
ấy sống tại nơi xa vắng, tu hành tinh cần, để chứng đắc tăng
thượng tâm, hiện pháp lạc trú. Vị ấy sau khi sống tại nơi xa
vắng, tu hành tinh cần, an ổn khoái lạc rồi, không xuyên tạc
học giới của Thế Tôn, cũng không xuyên tạc chư Thiên và các vị
Phạm hạnh có trí, cũng không xuyên tạc học giới của chính
mình. Vị ấy sau khi không xuyên tạc học giới của Thế Tôn,
không xuyên tạc chư Thiên và các vị Phạm hạnh có trí, cũng
không xuyên tạc học giới của chính mình rồi bèn sanh hoan
duyệt, do sanh hoan duyệt nên sanh hỷ, do sanh hỷ nên thân
khinh an, do thân khinh an nên cảm thọ lạc, do cảm thọ lạc nên
tâm định. Này Bạt-đà-hòa-lợi, Hiền Thánh đệ tử tâm định rồi
bèn thấy như thật, biết như thật. Sau khi thấy như thật, biết
như thật, bèn ly dục, ly ác bất thiện pháp, có giác có quán,
có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ thiền, thành tựu an
trụ. Này Bạt-đà-hòa-lợi, đó là vị ấy lúc bấy giờ chứng đắc
tăng thượng tâm thứ nhất, ngay trong đời hiện tại sống an lạc,
dễ được chớ không khó, an lạc sống trong vô úy an ổn khoái lạc
và thăng tiến đến Niết-bàn. Rồi vị ấy giác và quán đã tịch
tịnh, nội tĩnh, nhất tâm, không giác, không quán, hỷ lạc do
định sanh, chứng đắc đệ Nhị thiền, thành tựu an trụ. Này
Bạt-đà-hòa-lợi, đó là vị ấy bấy giờ chứng đắc tăng thượng tâm
thứ hai, ngay trong đời hiện tại được sống an lạc, dễ được chớ
không khó, an lạc sống trong vô úy, an ổn khoái lạc mà thăng
tiến đến Niết-bàn. Rồi vị ấy ly hỷ, xả dục, xả, an trú vô cầu,
với chánh niệm chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà Thánh nói
là Thánh xả, niệm, an trụ lạc, chứng đắc đệ Tam thiền thành
tựu an trụ. Này Bạt-đà-hòa-lợi, đó là vị ấy lúc bấy giờ chứng
đắc tăng thượng tâm thứ ba, ngay trong đời hiện tại được sống
an lạc, dễ được chớ không khó, an lạc sống trong vô úy, an ổn
khoái lạc mà thăng tiến đến Niết-bàn. Rồi vị ấy lạc diệt khổ
diệt, ưu và hỷ vốn cũng đã diệt, không khổ không lạc, xả niệm
thanh tịnh, chứng đắc đệ Tứ thiền, thành tựu an trụ. Này
Bạt-đà-hòa-lợi, đó là vị ấy lúc bấy giờ chứng đắc tăng thượng
tâm thứ tư ngay trong đời hiện tại được sống an lạc, dễ được
chớ không khó an trú trong vô úy, an ổn khoái lạc mà thăng
tiến đến Niết-bàn.
“Vị ấy với sự chứng đắc định tâm thanh tịnh như
vậy, không nhuế, không phiền, nhu nhuyến, an trụ vững vàng,
đạt đến bất động tâm, học và chứng đắc Túc mạng trí thông. Vị
ấy với hành vi, với tướng mạo, nhớ lại về trước vô lượng trăm
nghìn đời sống đã trải qua, một đời, hai đời trăm đời, nghìn
đời, thành kiếp, hoại kiếp, vô lượng thành kiếp hoại kiếp;
chúng sanh ấy có tên như vậy, mà vị ấy xưa kia đã từng trải,
biết rằng ‘Ta đã từng sanh làm người ấy, với tên như vậy, họ
như vậy, tự như vậy, sanh như vậy, ăn uống như vậy, thọ khổ
lạc như vậy, sống lâu như vậy, tồn tại như vậy, mạng chung như
vậy, chết ở đây sanh ở chỗ kia, chết ở chỗ kia sanh ở đây. Ta
sanh tại chỗ này với tên như vậy, họ như vậy, ăn uống như vậy,
tử như vậy, sanh như vậy, thọ khổ lạc như vậy, sống lâu như
vậy, tồn tại như vậy, mạng chung như vậy.’ Này Bạt-đà-hòa-lợi,
đó là vị kia lúc bấy giờ, chứng đắc minh đạt
[20]thứ nhất này, do trước kia không phóng dật, ưa
sống nơi xa vắng, tu hành tinh cần, cho đến vô trí diệt, và
trí tuệ phát sanh, bóng tối biến mất mà ánh sáng xuất sanh, vô
minh diệt mà minh phát sanh, tức là chứng ngộ minh đạt Ức túc
mạng trí
[21] .
“Vị ấy với sự chứng đắc định tâm như vậy, không
nhuế, không phiền an trụ vững vàng. Đạt đến bất động tâm, học
và chứng sanh tử trí thông. Vị ấy với thiên nhãn thanh tịnh,
vượt hẳn trên người thường, thấy chúng sanh này, lúc tử lúc
sanh, sắc đẹp sắc xấu, diệu hay chẳng diệu, qua lại thiện xứ
hay bất thiện xứ. Tùy theo tác nghiệp của chúng sanh này mà
thấy đúng như thật. Nếu chúng sanh này thành tựu thân ác hành,
khẩu và ý ác hành, phỉ báng Thánh nhân, tà kiến, thành tựu tà
kiến; do nhân duyên này khi thân hoại mạng chung tất sanh đến
ác xứ, sanh trong địa ngục. Nếu chúng sanh này thành tựu thân
diệu hạnh, khẩu và ý diệu hạnh, không phỉ báng chánh nhân,
chánh kiến, thành tựu chánh kiến; do nhân duyên khi thân hoại
mạng chung tất đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời. Này
Bạt-đà-hòa-lợi, đó là vị ấy lúc bấy giờ chứng đắc minh đạt thứ
hai, do trước kia không phóng dật, ưa sống nơi xa vắng, tu
hành tinh cần, vô trí diệt và trí sanh, bóng tối biến mất và
ánh sáng hiện thành, vô minh diệt và minh sanh, tức chứng ngộ
minh đạt Sanh tử trí
[22] .
“Vị ấy với sự chứng đắc định tâm thanh tịnh như
vậy, không uế, không phiền, an trụ vững vàng, đạt được bất
động tâm, học và chứng ngộ Lậu tận trí thông. Vị ấy biết như
thật rằng ‘Đây là Khổ, đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, biết
như thật đây là Khổ diệt đạo’; biết như thật rằng ‘Đây là lậu,
đây là lậu tập, đây là lậu diệt, biết như thật đây là lậu diệt
đạo.’ Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát khỏi
dục lậu, tâm giải thoát khỏi hữu lậu và vô minh lậu. Đã giải
thoát thì biết mình đã giải thoát. Biết như thật rằng ‘Sự sanh
đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn
tái sanh nữa.’ Này Bạt-đà-hòa-lợi, đó là vị ấy lúc bấy giờ
chứng đắc minh đạt thứ ba, do trước không phóng dật, ưa sống
nơi xa vắng, tu hành tinh tấn, vô trí diệt và trí sanh, bóng
tối biến mất và ánh sáng hiện thành, vô minh diệt và minh sanh
chứng chứng ngộ minh đạt Lậu tận trí
[23] .”
Lúc bấy giờ Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về Đức
Phật bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì, khi các
Tỳ-kheo cùng phạm giới, nhưng có trường hợp khổ trị, có trường
hợp không khổ trị.”
Thế Tôn nói:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, hoặc có Tỳ-kheo thường
xuyên phạm giới; do bởi thường xuyên hay phạm giới nên các
Tỳ-kheo đồng phạm hạnh khiển trách bằng những điều được thấy,
được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị ấy sau khi bị các
đồng phạm hạnh khiển trách bằng những điều được thấy, được
nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ, bèn nói lãng sang vấn đề
khác, những việc ngoài vấn đề; sân hận, thù nghịch, phẫn nộ,
bất mãn, xúc nhiễu chúng Tăng, khinh mạn chúng Tăng, nói như
vầy, ‘Tôi phải làm gì để chúng Tăng hoan hỷ mà vui lòng.’ Với
ý nghĩ như vậy. Này Bạt-đà-hòa-lợi, các Tỳ-kheo bèn nghĩ rằng,
‘Nhưng Hiền giả này thường hay phạm giới. Và do thường hay
phạm giới, nên bị các vị đồng phạm hạnh khiển trách bằng những
điều được thấy, được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị
này sau khi bị các vị đồng phạm hạnh khiển trách bằng những
điều được thấy được nghe hay từ người khác mà nghi ngờ, bèn
nói sang vấn đề khác, những sự việc ngoài vấn đề, sân hận, thù
nghịch, phẫn nộ, bất mãn, xúc nhiễu chúng Tăng, khinh mạn
chúng Tăng, nói như vầy ‘Tôi phải làm gì để chúng Tăng được
hoan hỷ mà hài lòng.’ Sau khi thấy vậy, bèn nói rằng: ”Này chư
Tôn, hãy xem xét khiến để kéo dài một thời gian
[24].
“Hoặc giả có Tỳ-kheo thường hay phạm giới; do
thường hay phạm giới cho nên bị các vị đồng phạm hạnh khiển
trách bằng những điều được thấy, được nghe, hay từ người khác
mà nghi ngờ. Vị ấy sau khi bị các vị đồng phạm hạnh khiển
trách bằng những điều được thấy, được nghe, hay từ người khác
mà nghi ngờ, không nói lãng sang vấn đề khác, những sự việc
ngoài vấn đề, không sân hận, thù nghịch chúng Tăng, phẫn nộ,
bất mãn, xúc nhiễu và khinh, mạn, không nói như vầy, ‘Tôi phải
làm gì để Tăng chúng hoan hỷ mà hài lòng.’ Không có ý nghĩ như
vậy. Này Bạt-đà-hòa-lợi, các Tỳ-kheo bèn nghĩ rằng, ‘Nhưng
Hiền giả này thường hay phạm giới, do bởi thường hay phạm giới
nên các vị đồng phạm hạnh khiển trách bằng những điều được
thấy, được nghe hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị ấy sau khi
bị các vị đồng phạm hạnh khiển trách bằng những điều được
thấy, được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ, vị ấy không
nói lãng sang vấn đề khác, những sự việc ngoài vấn đề không
sân hận, thù nghịch, phẫn nộ, bất mãn, không xúc nhiễu chúng
Tăng, không khinh mạn chúng Tăng, không nói như vầy, ‘Tôi phải
làm gì để chúng Tăng hoan hỷ mà hài lòng.’ Sau khi thấy như
vậy bèn nói rằng, ‘Này chư Tôn, hãy xem xét mà khiến cho diệt
sớm.’ Trường hợp phạm các cấm giới nhẹ cũng vậy.
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, hoặc giả có Tỳ-kheo có
tín, có ái, có tĩnh
[25]. ‘Nay Tỳ-kheo này còn có tín, có ái, có tĩnh. Nếu
chúng ta khổ trị Tỳ-kheo này, thì Hiền giả này vốn có tín, ái
và tĩnh, do đây mà dứt mất vậy. Chúng ta hãy cùng nhau cẩn
thận gìn giữ cho Hiền giả này. Rồi các Tỳ-kheo bèn cùng nhau
gìn giữ hộ. Này Bạt-đà-hòa-lợi, cũng như một người kia chỉ có
một con mắt các bà con quyến thuộc, vì thương tưởng, yêu mến,
mong cầu cho được sự thiện lợi và hữu ích, sự an ổn khoái lạc,
nên cùng nhau cẩn thận gìn giữ hộ, không để cho người này bị
lạnh nóng, đói, khát, đau yếu, ưu sầu, vừa đau yếu vừa ưu sầu,
không để cho phải bụi, không để cho khói, không để cho phải
bụi và khói. Vì sao vậy? Vì sợ ấy mất luôn một con mắt nữa.
Cho nên thân thuộc cẩn thận gìn giữ hộ. Này Bạt-đà-hòa-lợi,
cũng vậy, với Tỳ-kheo chỉ còn một ít tín, một ít ái, một ít
tĩnh, các Tỳ-kheo bèn nghĩ rằng, ‘Nay Tỳ-kheo chỉ có một ít
tín, một ít ái, một ít tĩnh nếu chúng ta khổ trị Tỳ-kheo này
thì Tỳ-kheo này sẽ do đây mà đứt mất một ít tín, một ít ái,
một ít tĩnh ấy. Chúng ta hãy cùng nhau giữ gìn hộ, cũng như
thân thuộc gìn giữ người một mắt vậy.”
Lúc bấy giờ Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi từ chỗ ngồi
đứng dậy, trịch vai áo sang bên, chắp tay hướng về Đức Phật,
bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì, ngày xưa
ít có thiết lập học giới nhưng được nhiều Tỳ-kheo vâng lĩnh
phụng trì? Và do nhân gì, duyên gì, bạch Thế Tôn, ngày nay
thiết lập nhiều học giới, nhưng ít có Tỳ-kheo vâng lãnh phụng
trì?”
Đức Thế Tôn đáp rằng:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi chúng Tỳ-kheo không
được thịnh lợi, trong chúng không có pháp hỉ hảo
[26] ; nhưng khi chúng Tỳ-kheo được thịnh lợi,
trong chúng phát sanh pháp hỉ hảo. Khi pháp hỉ hảo đã phát
sanh, Thế Tôn muốn đoạn trừ pháp hỉ hảo đó, bèn thiết lập học
giới cho đệ tử.
“Cũng vậy, khi chúng Tỳ-kheo được tán thán,
được lớn mạnh, có những bậc Thượng tôn được hàng vương giả
biết đến và có phước đức lớn, học vấn nhiều
[27]
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi chúng Tỳ-kheo không có
những người đa văn, trong chúng không phát sanh pháp hỉ hảo.
Nhưng khi chúng Tỳ-kheo có những người đa văn, trong chúng
phát sanh pháp hỉ hảo. Vì pháp hỉ hảo đã phát sanh, Thế Tôn
muốn đoạn trừ pháp hỉ hảo ấy, cho nên thiết lập học giới cho
các đệ tử.
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, không phải vì để đoạn trừ
hữu lậu trong hiện tại mà Ta thiết lập học giới cho các đệ tử.
Nhưng vì để đoạn trừ hữu lậu trong đời sau mà Ta thiết lập học
giới cho các đệ tử. Bạt-đà-hòa-lợi, vì vậy, vì để đoạn trừ hữu
lậu nên Ta thiết lập học giới đệ tử, khi đến vâng lãnh lời dạy
của Ta.
“Bạt-đà-hòa-lợi, trước kia Ta đã từng nói pháp
thí dụ về ngựa thuần giống
[28] cho các Tỳ-kheo, ở trong đó, do nhân gì, duyên
gì ngươi có nhớ không?”
Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, trong ấy có nguyên nhân. Vì sao
vậy? Thế Tôn thiết lập giới Nhất tọa thực cho chúng Tỳ-kheo.
Chúng Tỳ-kheo thảy đều vâng lãnh học giới và các pháp vi diệu
trong cảnh giới của Thế Tôn. Chỉ riêng con tuyên bố là không
kham nổi, từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi. Vì không theo giới cụ
túc và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Bạch Thế
Tôn, đó gọi là trong ấy có nguyên nhân.”
Đức Thế Tôn lại nói với Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi,
rằng:
“Trong đó không phải chỉ có nguyên nhân như
vậy. Này Bạt-đà-hòa-lợi, khi Ta nói thí dụ về loài ngựa thanh
tịnh cho các Tỳ-kheo, thì ngươi hẳn là không nhất tâm, không
khéo cung kính, không tư niệm mà nghe. Này Bạt-đà-hòa-lợi, đó
gọi là trong ấy lại còn có nguyên nhân khác nữa vậy.”
Lúc bầy giờ Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi liền từ chỗ
ngồi đứng dậy trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về Đức
Phật bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, nay thật là đúng lúc! Bạch Thiện
Thệ, nay thật là đúng lúc! Nếu Thế Tôn nói thí dụ về con ngựa
thuần giống cho các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Thế Tôn
nói, sẽ khéo léo ghi nhớ.”
Thế Tôn nói rằng:
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, cũng như người biết cách
huấn luyện ngựa, được một con ngựa tốt thuần giống. Người giỏi
huấn luyện ấy trước hết trị cái miệng của nó. Sau khi trị
miệng, tất nhiên nó sẽ không thích với sự chuyển động, muốn
hay không muốn. Vì sao vậy? Vì chưa từng được trị. Này
Bạt-đà-hòa-lợi, nếu con ngựa tốt thuần giống tuân theo cách
trị của người huấn luyện, cách trị thứ nhất được thành tựu.
Nhưng người huấn luyện lại phải trị bằng cách dàm mõm, cùm
chân; cùm chân, dàm mõm, nhưng khiến nó sãi, đi, cần phải làm
cho nó dừng lại, chạy đua, có thể để vua cỡi; đi không gì hơn,
trầm tĩnh không gìn hơn; trị các chi thể khác, thảy đều huấn
luyện cho thành tựu. Tất nhiên nó không thích với chuyển động,
hoặc muốn hay không muốn. Vì sao vậy? Vì bị sửa trị nhiều lần.
Này Bạt-đà-hòa-lợi! Nếu con ngựa tốt thuần giống, với người
huấn luyện, được sửa trị nhiều lần cho đến thành tựu. Lúc bấy
giờ nó là con ngựa thuần thục, khéo thuần thục, được đệ nhất
vô thượng thuần thục, vô thượng hành, đệ nhất hành, rồi xung
vào cho vua cỡi, ăn thóc của vua, được gọi là ngựa vua.
“Này Bạt-đà-hòa-lợi, cũng vậy, nếu bấy giờ có
một người hiền minh, có trí, thành tựu mười pháp vô học, vô
học chính kiến cho đến vô học chánh trí, người ấy lúc bấy giờ
là một người thuần thục, khéo thuần thục, vô thượng thuần
thục, được đệ nhất vô thượng thuần thục, vô thượng tĩnh chỉ,
đệ nhất tĩnh chỉ, diệt trừ tất cả tà vạy, diệt trừ tất cả ô
uế, diệt trừ tất cả sợ hãi, diệt trừ tất cả si ám, diệt trừ
tất cả siểm nịnh, lặng đọng mọi trần lao, thanh tịnh mọi cấu
trược, không còn gì để bị dính trước đáng kính, đáng trọng,
đáng phụng, đáng thờ, là ruộng phước cho hết thảy chư Thiên và
Nhân loại.”
Phật thuyết như vậy, Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi, và
các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản
Hán, quyển 51. Tương đương Pāli, M.65. Bhāddāli-sutta. Tham
chiếu, No.125 (49.7).
-
[02] Nhất
tọa thực. Một ngày chỉ ăn một lần giữa ngọ, và trong một lần
ấy cũng chỉ ngồi một lần, nếu có duyên sự gì phải đứng dậy
nửa chừng thì không ngồi ăn trở lại. Đây là một trong sáu
phép tịnh thực và cũng là một trong mười hai hạnh đầu đà.
Xem thêm Luật Tứ Phần 14 (No.1428, Đại 22, tr.660). Xem
cht.6, kinh 193. Pāli: ekāsanabhojana.
-
[03]
Bạt-đà-hòa-lợi. Pāli: Bhaddālī.
-
[04] Pāli
nói: ăn một phần tại chỗ và một phần mang đi. Theo Luật Tứ
Phần (sđd.,nt), trường hợp Tỳ-kheo bệnh, có thể ăn nhiều
lần.
-
[05] Trong
Luật tạng không thấy nói đến học giới Nhất tọa thực nhưng
nói là Sát sát thực (Pāli: parampara-bhojana).
-
[06] Bất học
cụ giới, xem cht.17 dưới.
-
[07] Văn giả
thiết, trực tiếp dẫn lời của Bạt-đà-hòa-lợi.
-
[08] Câu
giải thoát, hay Câu phần giải thoát. Pāli:
ubhatobhāgavimutta. Xem kinh 195 sau.
-
[09] Pāli
nói: ehi me tvam bhikkhu pake sākamo hoti, “Tỳ-kheo, lại
đây, làm cầu trên bùn cho Ta”.
-
[10] Tuệ
giải thoát. Pāli: Paññāvimutta, xem kinh 195 ở sau.
-
[11] Thân
chứng. Pāli: kāyasakkhin, xem kinh 195 ở sau.
-
[12] Kiến
đáo. Pāli: dihipatta, xem kinh 195 ở sau.
-
[13] Tín
giải thoát. Pāli: saddhāvimutta, nt.
-
[14] Pháp
hành, hay tùy pháp hành. Pāli: dhammānusārin, nt.
-
[15] Tín
hành, hay tùy tín hành. Pāli saddhāssussārin, nt.
-
[16] 靖) vô
ái pháp tĩnh, vô tránh pháp
Vô tín pháp tĩnh (hoặc tĩnh(hoặc). Chưa rõ ý nghĩa.
Xem cht.2 đoạn dưới.
-
[17] Bất học
cụ giới. Pāli satthusāsane sikkhāya aparipūrakārī, sự học
tập không đầy đủ trong giáo pháp của Tôn sư.
-
[18] Trong
nguyên bản: hiện pháp lạc cư.
-
[19] Đối
chiếu bản Pāli tassa tathāvūpakahassa viharato satthāpi
upavadati... devatāpi upavadanti, vị ấy trong khi sống viễn
ly như vậy, nhưng Đạo sư chỉ trích,..., chư Thiên cũng chỉ
trích.
-
[20] Minh
đạt, hay minh, tức ba minh: Pāli: tisso vijjā.
-
[21] Ức túc
mạng trí tác chứng minh đạt, hay túc mạng trí minh, hay túc
trụ tùy niệm tác chứng minh; xem Tập Dị Môn Luận 6, Đại 26,
tr.391a. Pāli: pubbenivāsānusatiñāa vijjā.
-
[22] Sanh tử
trí tác chứng minh đạt, hay tử sanh trí tác chứng minh; xem
Tập Dị Môn, đd. nt. Pāli: sattāna cutūpapāte ñāa vijjā.
-
[23] Lậu tận
trí tác chứng minh. Pāli: āsavāna khaye ñāa vijjā.
-
[24] Đương
quán linh cửu trụ. Pāli: (...) upaparikkhatha (...) na
khippameva vūpasameyyā ti, hãy tham cứu, chớ chấm dứt sớm.
-
[25] Hữu tín
hữu ái hữu tĩnh(hay)? Pāli: (...) saddāmattakena vahati
pemamattakena,(Tỳ-kheo ấy) tùng sự (Tăng) với một ít lòng
tin, một ít yêu mến. Bản Hán nói thêm tĩnh, mà có thể là
tránh chép nhầm. Đoạn này có thể hiểu: ”Tỳ-kheo tuy phạm
tọâi, nhưng còn một ít lòng tin, một ít thương yêu, và với
một ít tranh chấp nhỏ”.
-
[26] Hỷ hảo
pháp, “chuộng tốt”. Pāli: āsavahāniyā dhammā, pháp được xác
lập trên hữu lậu.
-
[27] Năm
trường hợp pháp hữu lậu phát sanh trong Tăng chúng: có thịnh
lợi, tăng lớn mạnh, có danh dự, có bậc kỳ túc được kinh
trọng, và có học vấn cao. So sánh Pāli: sagho mahatta
patto... lābhagga patto... yasagga... bāhusaccau...
rattaññuta...
-
[28] Thanh
tịnh mã dư pháp. Pāli: ājāniyasusūpama dhamma-pariyāy, pháp
môn thí dụ lương mã (tuấn mã).