-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Ca-thi
[02] cùng với đại chúng Tỳ-kheo.
Trong lúc dừng chân tại một nơi
[03], Đức Phật nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Ta một ngày chỉ ăn một lần
[04] Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi vô cầu,
không bệnh không đau, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an
ổn khoái lạc. Các ngươi cũng nên một ngày chỉ ăn một lần. Một
ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không bệnh không đau,
thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.”
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn vì chúng Tỳ-kheo mà thi
thiết giới, một ngày chỉ ăn một lần. Các Tỳ-kheo đều phụng trì
theo học giới này và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế
Tôn. Rồi Thế Tôn lần hồi đi đến Ca-la-lại
[05], trụ trong rừng Thi-nhiếp-hòa ở phía Bắc thôn
Ca-la-lại.
Lúc bấy giờ tại Ca-la-lại, có hai vị Tỳ-kheo,
một vị tên là A-thấp-bối, một vị tên là Phất-na-bà-tu[06].
Hai vị này là cựu chủ đất, chủ chùa, tông chủ. Hai vị này sáng
cũng ăn, chiều cũng ăn, tối cũng ăn, quá ngọ cũng ăn. Vì sáng
ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ cũng ăn, mà vô vi, vô cầu, không
có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái
lạc. Một số đông Tỳ-kheo nghe vậy, liền đến chỗ hai vị Tỳ-kheo
A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu mà nói hai vị rằng:
“Này A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, Đức Thế Tôn
du hóa tại nước Ca-thi cùng với chúng đại Tỳ-kheo, trong lúc
dừng chân tại một nơi, bảo các Tỳ-kheo rằng, ‘Ta một ngày chỉ
ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không
có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái
lạc. Các ngươi cũng nên một ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ
ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có tật bệnh, thân thể
nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.’ Bấy giờ Đức Thế
Tôn thi thiết giới này cho chúng Tỳ-kheo, đó là một ngày chỉ
ăn một lần. Các Tỳ-kheo đều phụng trì theo học giới này cùng
các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Này A-thấp-bối
và Phất-na-bà-tu, các thầy cũng nên ngày chỉ ăn một lần. Một
ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh,
thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các thầy
chớ trái nghịch với Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo.”
A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu nghe vậy liền nói:
“Này chư Hiền, chúng tôi sáng ăn, chiều ăn, tối
ăn, quá ngọ ăn. Vì sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ ăn, xong
rồi, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí
lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Chúng tôi vì duyên do gì mà bỏ
hiện tại để phải chờ đợi về sau.”
Hai vị ấy nói như thế ba lần. Chúng Tỳ-kheo
không thể làm cho A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu trừ bỏ ác tà
kiến, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi, đến chỗ Phật cúi đầu
đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi ngồi sang một bên thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, ở Ca-la-lại này có hai vị
Tỳ-kheo, một vị tên là A-thấp-bối, một vị tên là
Phất-na-bà-tu. Hai vị này là cựu chủ đất, chủ chùa, tông chủ.
Hai vị này sáng cũng ăn, chiều cũng ăn, tối cũng ăn, quá ngọ
cũng ăn. Vì sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ cũng ăn, mà vô
vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi
dào, an ổn khoái lạc. Bạch Thế Tôn, chúng con nghe như vậy
liền đến chỗ cho A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu mà nói thế này,
‘Này A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, Đức Thế Tôn du hóa tại nước
Ca-thi cùng với chúng đại Tỳ-kheo, trong lúc dừng chân tại một
nơi, bảo các Tỳ-kheo rằng, ‘Ta một ngày chỉ ăn một lần. Một
ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh,
thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các
ngươi cũng nên một ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một
lần xong, vô vi, vô cầu, không có tật bệnh, thân thể nhẹ
nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.’ Bấy giờ Đức Thế Tôn
thi thiết giới này cho chúng Tỳ-kheo, đó là một ngày chỉ ăn
một lần. Các Tỳ-kheo đều phụng trì theo học giới này cùng các
pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Này A-thấp-bối và
Phất-na-bà-tu, các thầy cũng nên ngày chỉ ăn một lần. Một ngày
chỉ ăn một lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân
thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các thầy chớ
trái nghịch với Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo.’
“A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu nghe vậy liền trả
lời chúng con như vầy, ‘Này chư Hiền, chúng tôi sáng ăn, chiều
ăn, tối ăn, quá ngọ ăn. Vì sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ
ăn, xong rồi, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ
nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Chúng tôi vì duyên do
gì mà bỏ hiện tại để phải chờ đợi về sau?’ Như vậy ba lần.
“Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con không thể làm
cho A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu trừ bỏ ác tà kiến này, nên
chúng con từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi.”
Đức Thế Tôn nghe xong liền bảo một vị Tỳ-kheo:
“Ngươi đến chỗ A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu mà
nói như thế này: ‘Này A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, Đức Thế Tôn
gọi các thầy.’”
Vị Tỳ-kheo nghe rồi liền đáp:
“Kính vâng, bạch Thế Tôn.”
Rồi từ chỗ ngồi đứng dậy cúi đầu lễ dưới chân
Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi ra đi. Tỳ-kheo ấy đến chỗ hai
vị Tỳ-kheo A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu nói rằng:
“Này A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, Thế Tôn gọi
hai thầy đó.”
A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu nghe vậy liền đi
đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi ngồi
sang một bên.
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, chúng Tỳ-kheo
thật có nói với các ngươi như vầy: ‘Này A-thấp-bối và
Phất-na-bà-tu, Đức Thế Tôn du hóa tại nước Ca-thi cùng với
chúng Đại Tỳ-kheo, trong lúc dừng chân tại một nơi, bảo các
Tỳ-kheo rằng, ‘Ta một ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một
lần xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ
nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các ngươi cũng nên
một ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi,
vô cầu, không có tật bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi
dào, an ổn khoái lạc.’ Bấy giờ Đức Thế Tôn thi thiết giới này
cho chúng Tỳ-kheo, đó là một ngày chỉ ăn một lần. Các Tỳ-kheo
đều phụng trì theo học giới này cùng các pháp vi diệu trong
cảnh giới của Thế Tôn. Này A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, các
thầy cũng nên ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một lần
xong, vô vi, vô cầu, không có đau bệnh, thân thể nhẹ nhàng,
khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc. Các thầy chớ trái nghịch với
Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo.’
“Này A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, các ngươi
nghe rồi lại nói với chúng Tỳ-kheo rằng, ‘Này chư Hiền, chúng
tôi sáng ăn, chiều ăn, tối ăn, quá ngọ ăn. Vì sáng ăn, chiều
ăn, tối ăn, quá ngọ ăn, xong rồi, vô vi, vô cầu, không có đau
bệnh, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.
Chúng tôi vì duyên do gì mà bỏ hiện tại để phải chờ đợi về
sau?’ Hai ngươi nói như vậy ba lần. Này A-thấp-bối và
Phất-na-bà-tu, rồi chúng Tỳ-kheo không thể làm cho hai ngươi
trừ bỏ ác tà kiến, nên từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi, thật có vậy
không?”
A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, thật có như vậy.”
Thế Tôn dạy nói:
“Này A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, các ngươi có
hiểu biết pháp ta nói như vầy: ”Nếu ai có cảm thọ về cảm thọ
lạc, và khi người ấy cảm thọ về cảm thọ lạc rồi, thì các pháp
ác bất thiện tăng trưởng, các pháp thiện lại giảm? Nếu ai cảm
thọ về cảm thọ khổ, và khi cảm thọ về cảm thọ khổ rồi, pháp ác
bất thiện giảm và các thiện pháp sanh trưởng?”
A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, thưa rằng:
“Quả vậy, bạch Thế Tôn. Chúng con biết Đức Thế
Tôn nói pháp như vậy, ‘Nếu ai có cảm thọ về cảm thọ lạc, và
khi đã cảm thọ về cảm thọ lạc rồi, pháp ác bất thiện tăng
trưởng và thiện pháp tổn giảm. Nếu ai cảm thọ về cảm thọ khổ,
và khi đã cảm thọ về cảm thọ khổ rồi thì pháp ác bất thiện
giảm và pháp thiện tăng trưởng.”
Đức Thế Tôn quở trách A-thấp-bối và
Phất-na-bà-tu rằng:
“Các ngươi là người ngu. Do đâu mà các ngươi
biết ta nói pháp như vậy? Các ngươi là người ngu. Từ miệng ai
mà các ngươi biết Ta nói pháp như vậy? Các ngươi là người ngu.
Ta không nói một chiều, mà các ngươi lại thọ trì một chiều.
Các ngươi là người ngu. Khi nào được các Tỳ-kheo hỏi, các
ngươi phải đáp đúng như pháp rằng, ‘Chúng tôi chưa biết, sẽ
hỏi lại các Tỳ-kheo.’”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Các ngươi cũng có hiểu biết pháp ta nói như
vậy, ‘Nếu ai cảm thọ về cảm thọ lạc, và khi đã cảm thọ về cảm
thọ lạc rồi, pháp bất thiện tăng trưởng và pháp thiện tổn
giảm. Nếu ai có cảm thọ khổ, và khi đã cảm thọ về cảm thọ khổ
rồi, pháp bất thiện tổn giảm và pháp thiện tăng trưởng?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, không phải vậy.”
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Các ngươi biết pháp ta nói như thế nào?”
Chúng Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, chúng con hiểu biết pháp Đức Thế
Tôn nói như vầy, ‘Hoặc có cảm thọ về cảm thọ lạc thì ác pháp,
bất thiện pháp tăng trưởng, pháp thiện lại giảm. Hoặc có cảm
thọ về cảm thọ lạc, mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện
lại tăng trưởng. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ, nên pháp ác
bất thiện lại tăng trưởng, pháp thiện lại tổn giảm. Hoặc có
cảm thọ về cảm thọ khổ nên pháp ác bất thiện tổn giảm và pháp
thiện tăng trưởng.’ Bạch Thế Tôn, chúng con hiểu biết Đức Thế
Tôn nói pháp như vậy.”
Đức Thế Tôn nghe nói thế, tán thán các Tỳ-kheo
rằng:
“Lành thay! Lành thay! Nếu các ngươi biết như
vầy, ‘Hoặc có cảm thọ về cảm thọ lạc, nên pháp ác bất thiện
tăng trưởng, pháp thiện tổn giảm. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ
lạc, nên pháp ác, bất thiện tổn giảm, thiện pháp tăng trưởng.
Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ, nên pháp ác bất thiện tăng
trưởng, thiện pháp bị tổn giảm. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ
nên pháp ác, bất thiện tổn giảm, pháp thiện tăng trưởng.’ Vì
sao? Ta cũng nói như vầy, ‘Hoặc có cảm thọ về cảm thọ lạc, nên
pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện tổn giảm. Hoặc có
cảm thọ về cảm thọ lạc, nên pháp ác bất thiện tổn giảm, pháp
thiện tăng trưởng. Hoặc có cảm thọ về cảm thọ khổ nên pháp ác
bất thiện tăng trưởng, pháp thiện tổn giảm. Hoặc có cảm thọ về
cảm thọ khổ nên pháp ác, bất thiện tổn giảm, pháp thiện tăng
trưởng.’
“Nếu Ta không biết đúng như thật, không thấy,
không hiểu rõ, không chứng đắc, không giác ngộ cứu cánh; thì
hoặc có cảm thọ lạc mà pháp ác bất thiện giảm, pháp thiện tăng
trưởng, Ta không nên nói đoạn trừ cảm thọ lạc. Nếu Ta không
biết như thật, không thấy, không hiểu rõ, không chứng đắc,
không chứng ngộ cứu cánh; thì hoặc có cảm thọ khổ mà pháp ác
bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm, Ta không nên nói
tu tập cảm thọ lạc.
“Nếu Ta không biết như thật, không thấy, không
hiểu rõ, không chứng đắc, không giác ngộ cứu cánh; thì hoặc có
cảm thọ khổ mà pháp bất thiện lại tăng, thiện pháp tăng giảm,
Ta không nên nói đoạn trừ cảm thọ khổ. Nếu Ta không biết như
thật, không thấy, không hiểu rõ, không chứng đắc, không giác
ngộ cứu cánh; thì hoặc có cảm thọ khổ mà pháp bất thiện lại
giảm, thiện pháp tăng tăng, Ta không nên nói tu cảm thọ khổ.
“Nếu Ta biết đúng như thật, thấy rõ, hiểu rõ,
chứng đắc, giác ngộ cứu cánh; thì hoặc có cảm thọ lạc, mà pháp
ác bất thiện lại tăng, pháp thiện lại giảm, cho nên ta nói
đoạn trừ cảm thọ lạc. Nếu Ta biết đúng như thật, thấy rõ, hiểu
rõ, chứng đắc, giác ngộ cứu cánh; thì hoặc có cảm thọ lạc mà
pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện lại tăng trưởng, cho
nên Ta nói tu cảm thọ lạc.
“Nếu Ta biết đúng như thật, thấy rõ, hiểu rõ,
chứng đắc, giác ngộ cứu cánh; thì hoặc có cảm thọ khổ, mà pháp
ác bất thiện lại tăng, pháp thiện lại giảm, cho nên Ta nói
đoạn trừ cảm thọ khổ. Nếu Ta biết đúng như thật, thấy rõ, hiểu
rõ, chứng đắc, giác ngộ cứu cánh; thì hoặc có cảm thọ khổ mà
pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện lại tăng trưởng, cho
nên Ta nói tu cảm thọ khổ.
“Vì sao? Ta không nói tu tập tất cả thân lạc,
cũng không nói không nên tu tập tất cả thân lạc. Ta không nói
tu tập tất cả thân khổ, cũng không nói không nên tu tập tất cả
thân khổ. Ta không nói tu tập tất cả tâm lạc, cũng không nói
không nên tu tập tất cả về tâm lạc. Ta không nói tu tập tất cả
tâm khổ, cũng không nói không nên tu tập tất cả tâm khổ.
“Thế nào là thân lạc mà ta nói là không tu? Nếu
tu thân lạc mà pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại
giảm, thì thân lạc như vậy ta nói không tu. Thế nào là thân
lạc mà Ta nói tu? Nếu tu thân lạc mà pháp ác bất thiện giảm,
thiện pháp tăng trưởng, thân lạc như vậy ta nói tu. Thế nào là
thân khổ mà ta nói không tu? Nếu tu thân khổ mà pháp ác bất
thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm, thân khổ như vậy, ta
nói không tu. Thế nào là thân khổ mà ta nói tu? Nếu tu thân
khổ mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện tăng trưởng.
Thân khổ như vậy, ta nói tu.
“Thế nào là tâm lạc ta nói không tu? Nếu tu tâm
lạc mà các pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm.
Tâm lạc như vậy, ta nói không tu. Thế nào là tâm lạc ta nói
phải tu? Nếu tu tâm lạc mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp
thiện tăng trưởng. Tâm lạc như vậy ta nói tu. Thế nào là tâm
khổ mà ta nói không tu? Nếu tu tâm khổ mà các pháp ác bất
thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm. Tâm khổ như vậy ta nói
không tu. Thế nào là tâm khổ mà ta nói tu? Nếu tu tâm khổ mà
pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện tăng trưởng, tâm khổ
như vậy, ta nói tu.
“Người kia đối với pháp nên tu mà biết đúng như
thật, đối với pháp không nên tu cũng biết đúng như thật; và
khi đã biết đúng như thật về pháp nên tu và pháp không nên tu,
người ấy liền không tu pháp không nên tu, và tu pháp nên tu.
Sau khi đã không tu pháp không nên tu, và tu pháp nên tu rồi,
pháp ác bất thiện liền giảm, pháp thiện tăng trưởng.
“Ta không nói tất cả Tỳ-kheo đều thực hành sự
không phóng dật, cũng không nói tất cả các Tỳ-kheo đều không
thực hành sự không phóng dật.
“Thế nào là Tỳ-kheo không thực hành sự không
phóng dật? Nếu có vị Tỳ-kheo nào chứng câu giải thoát
[07] Thế nào là Tỳ-kheo có câu giải thoát? Nếu có
Tỳ-kheo đối với tám giải thoát, thân đã chứng
[08] , thành tựu an trụ, do tuệ kiến
[09]. mà các lậu đã diệt tận, đã biết rõ. Như vậy
là Tỳ-kheo có câu giải thoát. Vị Tỳ-kheo này ta nói thực hành
sự không phóng dật. Nếu Hiền giả này vốn có phóng dật thì điều
ấy không bao giờ có. Vì vậy, Ta nói vị Tỳ-kheo này không thực
hành sự không phóng dật.
“Hoặc có Tỳ-kheo không phải câu giải thoát mà
có tuệ giải thoát. Thế nào là Tỳ-kheo có tuệ giải thoát? Nếu
có Tỳ-kheo đối với tám giải thoát mà thân không chứng, thành
tựu an trú, nhưng do tuệ kiến mà các lậu đã diệt tận, đã biết
rõ. Như vậy là Tỳ-kheo có tuệ giải thoát. Vị Tỳ-kheo này Ta
nói không thành tựu sự không phóng dật. Vì sao? Vì Hiền giả
này vốn đã thành tựu sự không phóng dật. Nếu Hiền giả này vốn
có phóng dật thì điều ấy không bao giờ có. Vì vậy Ta nói vị
Tỳ-kheo này không thành tựu sự không phóng dật.
“Hai hạng Tỳ-kheo này Ta nói không thành tựu sự
không phóng dật. Này các Tỳ-kheo, tại sao Ta nói thành tựu sự
không phóng dật? Hoặc có Tỳ-kheo không có câu giải thoát, cũng
không có tuệ giải thoát mà có thân chứng. Thế nào là Tỳ-kheo
có thân chứng? Nếu có Tỳ-kheo đối với tám giải thoát, thân đã
chứng, thành tựu an trụ, không do tuệ kiến mà các lậu đã diệt
tận, đã biết rõ
[10] Như vậy là Tỳ-kheo có thân chứng. Tỳ-kheo này
Ta nói thực hành sự không phóng dật. Ta thấy vị Tỳ-kheo này
hành không phóng dật. Vì có quả gì khiến Ta nói Tỳ-kheo ấy
hành không phóng dật? Ở đây, vị Tỳ-kheo này tìm cách chế ngự
các căn
[11], học tập theo thiện tri thức, sống tùy thuận
an trú
[12] , các lậu đã diệt tận, đắc được vô lậu, giải
thoát, tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại, tự tri, tự giác,
tự tác chứng thành tựu và an trú, biết như thật rằng ‘Sự sanh
đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn
tái sanh nữa.’ Vì Ta thấy vị Tỳ-kheo này không phóng dật, có
được quả như thế, cho nên Ta nói vị Tỳ-kheo này thực hành sự
không phóng dật.
“Hoặc có vị Tỳ-kheo không phải câu giải thoát,
không phải tuệ giải thoát, cũng không phải thân chứng, nhưng
lại kiến đáo[13]
Thế nào là Tỳ-kheo có kiến đáo? Nếu Tỳ-kheo nào có lòng tin
dứt khoát đối với Phật, Pháp, Tăng, tùy thuộc pháp được nghe,
rồi do tuệ mà có tăng thượng quán và tăng thượng nhẫn
[14] Như thế, vị Tỳ-kheo này có kiến đáo. Vị
Tỳ-kheo này Ta nói không phóng dật. Vì có quả gì khiến Ta nói
vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật? nếu có Tỳ-kheo nào tìm
cách chế ngự các căn, học tập các vị thiện tri thức, sống tùy
thuận an trú, các lậu đã tận diệt, được vô lậu, tâm giải
thoát, tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại, tự tri tự giác, tự
chứng, thành tựu và an trụ, biết một cách như thật rằng ‘Sự
sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa.’ Vì Ta thấy vị Tỳ-kheo này hành không
phóng dật có quả như vậy. Cho nên Ta nói vị Tỳ-kheo này hành
không phóng dật.
“Nếu Tỳ-kheo nào không phải câu giải thoát,
không phải tuệ giải thoát, cũng không phải thân chứng, cũng
không phải kiến đáo, nhưng lại có tín giải thoát. Thế nào là
Tỳ-kheo có tín giải thoát? Nếu Tỳ-kheo nào có lòng tin dứt
khoát đối với Phật, Pháp, Tăng, tùy theo pháp được nghe, rồi
do tuệ mà có quán và nhẫn nhận, không bằng kiến đáo
[15] Như vậy là vị Tỳ-kheo này có tín giải thoát.
Vị Tỳ-kheo này Ta nói hành không phóng dật. Ta thấy vị Tỳ-kheo
này hành không phóng dật, vì có quả gì, khiến Ta nói vị
Tỳ-kheo này hành không phóng dật? nếu có vị Tỳ-kheo nào tìm
cách chế ngự được các căn, học tập theo các vị thiện tri thức,
sống tùy thuận an trú, các lậu đã diệt tận, được vô lậu, tâm
giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại, tự tri, tự
giác, tự tác chứng thành tựu và an trụ, biết một cách như thật
rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm
xong, không còn tái sanh nữa.’ Vì Ta thấy vị Tỳ-kheo này hành
không phóng dật, vì có quả như vậy, cho nên Ta nói vị Tỳ-kheo
này hành không phóng dật.
“Nếu có vị Tỳ-kheo nào không có câu giải thoát,
không có tuệ giải thoát, không có thân chứng, không có kiến
đáo cũng không có tín giải thoát, nhưng có pháp hành
[16]. Thế nào là Tỳ-kheo có pháp hành? Nếu Tỳ-kheo
nào có lòng tin tuyệt đối với Phật, Pháp, Tăng, tùy theo pháp
được nghe, rồi do tuệ mà có tăng thượng quán, tăng thượng nhẫn
[17]. Như vậy, Tỳ-kheo này có pháp hành. Vị Tỳ-kheo
này Ta nói hành không phóng dật. Ta thấy vị Tỳ-kheo này hành
không phóng dật, vì có quả gì khiến Ta nói vị Tỳ-kheo này hành
không phóng dật? Nếu có Tỳ-kheo nào tìm cách chế ngự các căn,
học tập theo thiện tri thức, sống tùy thuận an trú, đối với
trong hai quả chắc chắn sẽ đạt được một. Hoặc ngay trong hiện
tại được cứu cánh trí, nếu còn hữu dư được A-na-hàm. Vì Ta
thấy vị này hành không phóng dật, có quả như vậy. Cho nên Ta
nói vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật.
“Nếu có Tỳ-kheo nào không có câu giải thoát,
không có tuệ giải thoát, không có thân chứng, không có kiến
đáo, không có tín giải thoát, không có pháp hành, nhưng lại có
tín hành. Thế nào là Tỳ-kheo có tín hành? Nếu vị Tỳ-kheo nào
có lòng tin dứt khoát đối với Phật, Pháp, Tăng, tùy theo pháp
được nghe, rồi do tuệ mà quán và nhẫn, không như pháp hành.
Như vậy, Tỳ-kheo này có tín hành. Vị Tỳ-kheo này Ta nói hành
không phóng dật. Ta thấy vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật,
vì quả gì khiến Ta nói vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật?
Nếu có vị Tỳ-kheo nào tìm cách chế ngự các căn, học tập theo
thiện tri thức, sống tùy thuận an trú, đối với trong hai quả
chắc chắn sẽ đạt được một, hoặc ngay trong hiện tại được cứu
cánh trí, nếu còn hữu dư, đắc A-na-hàm. Vì Ta thấy vị Tỳ-kheo
này hành không phóng dật. Các vị Tỳ-kheo này Ta nói hành không
phóng dật.
“Ta không nói tất cả Tỳ-kheo được cứu cánh trí,
cũng không nói tất cả các Tỳ-kheo ngay từ đầu được cứu cánh
trí, song dần dần học tập và thực hành, nhận lãnh giáo huấn,
chịu khiển trách, sau đó các Tỳ-kheo mới được cứu cánh trí,
cứu cánh trí mà các Tỳ-kheo chứng đắc này.
“Thế nào là dần dần học tập và thực hành, nhận
lãnh giáo huấn và khiển trách, sau đó các Tỳ-kheo mới được cứu
cánh trí, cứu cánh trí mà các Tỳ-kheo chứng đắc này? Nếu có
tín giả nào liền tìm đến. Tìm đến rồi liền phụng sự; phụng sự
rồi liền nhất tâm nghe pháp; nhất tâm nghe pháp rồi liền thọ
trì pháp; thọ trì pháp rồi liền tư duy về pháp; tư duy về pháp
rồi liền chấp nhận
[18] ; chấp nhận rồi liền quán sát về pháp. Đệ tử
hiền thánh quán sát về pháp rồi thì tự thân tác chứng chân đế,
và do tuệ có tăng thượng quán[19].
Vị ấy liền nghĩ, ‘Chân đế này, tự thân Ta chưa từng tác chứng
cũng không phải được tăng thượng quán bằng tuệ. Ta hãy tự thân
tác chứng chân đế này, và do tuệ mà tăng thượng quán. Như vậy
dần dần học tập và thực hành, nhận lãnh giáo huấn và khiển
trách, rồi sau các Tỳ-kheo mới đắc cứu cánh trí, cứu cánh trí
mà các Tỳ-kheo chứng đắc này.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói rằng:
“Này A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu, có pháp được
gọi là Tứ cú, Ta nói cho các ngươi nghe, các ngươi có muốn
biết không?”
A-thấp-bối và Phất-na-bà-tu thưa:
“Bạch Thế Tôn! Chúng con là hạng người nào và
do đâu hiểu được pháp?”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn nghĩ rằng:
“Hạng người ngu si này vượt quá sự chỉ dạy của
Ta. Đối với pháp luật chân chính này, còn cách biệt quá lâu
dài. Nếu có vị thầy pháp luật nào tham trước việc ăn uống,
không xả ly việc ăn uống mà đệ tử của vị ấy còn không nên dục
tốc, phóng dật. Huống chi Ta lại là người không tham trước
việc ăn uống, viễn ly sự ăn uống, do đó tín đệ tử của Ta nên
nói, ‘Đức Thế Tôn là bậc thầy của ta. Ta là đệ tử của Đức Thế
Tôn. Đức Thế Tôn nói pháp cho ta nghe. Đức Thiện Thệ nói pháp
cho ta nghe. Mong cho ta được thiện lợi, hữu ích, được an ổn
khoái lạc lâu dài. Tín đệ tử kia đối với cảnh giới của Thế Tôn
có nhiều điều phải làm, đối với cảnh giới của Thế Tôn được
nhiều lợi ích. Đối với cảnh giới của Thế Tôn có nhiều điều
phải hành, thể nhập trong cảnh giới của Thế Tôn, an chỉ trong
cảnh giới của Thế Tôn. Nếu trú ở phương Đông, chắc chắn sẽ
được an lạc, không có chỗ khổ hoạn. Nếu trụ ở phương Nam,
phương Tây và phương Bắc, chắc chắn sẽ được an lạc, không có
các khổ hoạn.’ Nếu tín đệ tử nào đối với cảnh giới của Thế Tôn
mà có nhiều điều phải làm, đối với cảnh giới của Thế Tôn, được
nhiều điều lợi ích, đối với cảnh giới của Thế Tôn có nhiều
điều phải hành, thể nhập cảnh giới của Thế Tôn, an chỉ cảnh
giới của Thế Tôn. Tín đệ tử ấy đối với pháp thiện đã trụ, Ta
không còn nói, huống chi nói đến pháp suy thoái, nhưng ngày
đêm vẫn tăng trưởng pháp thiện, chớ không suy thoái. Nếu Tín
đệ tử nào đối với cảnh giới của Đức Thế Tôn có nhiều điều phải
làm, đối với cảnh giới của Thế Tôn được nhiều lợi ích, đối với
cảnh giới của Thế Tôn có nhiều điều phải hành, thể nhập vào
cảnh giới của Thế Tôn, an chỉ trong cảnh giới của Thế Tôn,
trong hai quả, chắc chắn sẽ đạt được một, hoặc hiện tại được
cứu cánh trí, nếu hữu dư, chứng được A-na-hàm.”
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo nghe Phật
thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương
đương Pāli, M.70. Kīāgiri-sutta.
-
[02] Ca thi
quốc. Pāli: Kāsi, một trong mười sáu đại quốc. Thủ phủ là
Bāraāsi. Trong thời Đức Phật, Kāsi được sát nhập với Kosala
của vua Pasenadi. Kāsi là một trung tâm thương mãi và đông
dân.
-
[03] Du tại
nhất xứ: không xác định địa điểm.
-
[04] Nhật
nhất thực. Pāli: ekabhattika; nhưng, bản Pāi tương đương:
aññatreva rattibhojianā bhuñjāmi. Ta từ bỏ ăn đêm.
-
[05]
Ca-la-lại. Pāli: Kīagiri.
-
[06]
A-thấp-bối, Pāli: Assaji. (trùng tên với một người trong năm
đệ tử đầu tiên của Phật). Phất-na-bà-tu; Pāli: Punabhasuka.
Hai vị này dẫn đầu một nhóm Tỳ-kheo bất tuân ở tại Kīāgiri,
đưa đến việc thiết lập một điều khoản quan trọng trong Giới
bổn Tỳ-kheo. (Xem Tứ Phần Luật 5, No.1428, Đại 22, tr.
596c-599a).
-
[07] Câu
giải thoát tức Câu phần giải thoát. Gọi là Cu phần vì có hai
phần chướng, phiền não phần chướng và giải thoát phần chướng
(xem Tập Dị Môn Luận 17, Đại 26 tr.436a). Pāli:
Ubhatobhāgavimutta.
-
[08] Thân
xúc; Tập Dị (đd.,nt.): Thân dĩ chứng. Pāli: santā vimokhā
atkkama rūpe āruppā te kāyena phassitvā viharati, tịch tịnh
giải thoát, vượt qua các sắc và vô sắc, sau khi thể nghiệm
bằng thân, vị ấy an trụ.
-
[09] Tuệ
kiến, Pāli: paññāya cassa divā, sau khi thấy bằng tuệ.
-
[10] “Căn cứ
vào sự chứng đắc diệt định mà thành lập thân chứng, tức là
do thân chứng đắc diệt định vậy” (Cu-xá: 25, No.1558, Đại 29
tr.131b).
-
[11] Cầu ư
chư căn. Pāli: indriyāni samannayāmano, đang chế ngự các
căn.
-
[12] Hành
tùy thuận trụ chỉ. Pāli: anulomikāni senāsanāni paisevamano,
đang sử dụng các thứ sàng tọa đúng quy định (một cách tùy
thuận).
-
[13] Kiến
đáo, cũng gọi là kiến chí. Pāli: dihipatto.
-
[14] Tức là
bậc Thánh này căn cứ trên địa vị tùy pháp hành (xem dưới)
chứng đắc Đạo loại trí, với sự bén nhạy của tuệ (Tập Dị đd.,
tr.435c Cu-xá đd., nt.). Pāli: paññāya vodihā honti
vocaritā, do tuệ mà quán sát và thấu triệt.
-
[15] Câu-xá,
đd.nt., căn cứ trên Tùy tín hành (xem dưới) mà chứng đắc Đạo
loại trí, khả năng của tuệ không bén nhạy phải nương vào
tín.
-
[16] Pháp
hành, hay tùy pháp hành. Với bản tánh nhiều tư duy phân
tích, mà học về bốn Diệu đế, quán sát khổ đế (tuệ tăng
thượng) rồi thấy rõ nhận thức về sự thật của khổ đế (nhân
tăng thượng) như vậy là chứng bậc tùy hành pháp” (tóm tắt,
Tập Dị đd. nt.). Pāli: dhammānusāri.
-
[17] Pāli:
(...) mattaso nijjhāna khamanti, bằng vào tuệ mà chấp nhận
sự lý giải hạn một cách hạn chế.
-
[18] Hán:
bình lượng. Pāli: dhammā nijjhāna khamanti, hoan hỷ chấp
nhận pháp.
-
[19] Pāli:
paññāya naṃ ativijjha passati, do tuệ mà thấy pháp ấy một
cách tinh mật.