- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Bạt Kỳ, thôn Xá Di [2] .
Bấy giờ sa di Châu Na [3] , kiết hạ ở Ba Hòa [4] . Tại xứ Ba Hòa
có một Ni Kiền tên là Thân Tử [5] . Nơi đây, vị ấy qua đời. Sau
khi qua đời không bao lâu, các đệ tử Ni Kiền thân tử chia rẻ và
phá hoại nhau, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau. Họ tranh
đấu, kiện tụng cột trói nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với
nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp
sao bằng chỗ ta biết? Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta
nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi
nói sau, điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Ta nói là tối
thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể
trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động
thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại”. Họ kiêu mạn và thách đố lẫn
nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn, mà không có người nào để
khiển trách. Nếu có những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni
Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nãn và lãng xa các đệ tử của
Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều
là ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến
chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là
sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy
nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc
Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ Sa di Châu Na đã qua ba tháng an cư mùa mưa, sửa vá
lại y áo, rồi mang y cất bát đến thôn Xá Di, rồi qua phía bắc
thôn Xá Di, đến rừng Thi Nhiếp Hòa. Sa di Châu Na đến chỗ Ngài A
Nan. Sau khi đến nơi, đảnh lễ sát chân Ngài A Nan, rồi ngồi qua
một bên.
Tôn giả A Nan hỏi: [6]
Này Hiền giả Châu Na! Từ đâu đến đây và an cư mùa mưa ở đâu?
Sa di Châu Na đáp:
Bạch Tôn giả A Nan! con từ Ba Hòa đến, và an cư mùa mưa ở Ba
Hòa. Bạch Tôn giả! Tại Ba Hòa có một ni Kiền tên là Thân Tử. Nơi
đây, Thân Tử mới qua đời chưa bao lâu thì đệ tử của Ni Kiền Thân
Tử đã chia rẽ và phá hoại, nói những lời chia rẽ và phá hoại
nhau, thù nghịch nhau, họ đấu tranh kiện tụng, cột trói nhau,
tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết.
Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết. Ta nói từ tốn, còn ngươi
không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng
nói trước, ngươi nói sau. Ðiều đáng nói sau, ngươi nói trước. Ta
nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi ngươi
không thể trả lời được. Ta đã chế phục ngươi, ngươi còn hỏi nữa.
Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu mạn và
thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ cho mình nói hơn mà không có
người nào để khiển trách. Nếu có những người bạch y tại gia, đệ
tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nản và lãng xa,
các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều
họ nói đây là những điều ác pháp luật không phải là pháp xuất
yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của
đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại không thể đứng vững không nơi
để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không
phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.
Tôn giả A Nan nghe xong, nói rằng: "Này Hiền giả Châu Na, nhân
dịp này, chúng ta có thể đến yết kiến đức Phật, đem sự việc này
trình bày lên Ngài. Này Hiền giả Châu Na, bây giờ chúng ta cùng
đi đến đức Phật, đem tất cả sự việc này trình lên cho đức Thế
Tôn. Thảng hoặc, chúng ta có thể nhân đó mà được nghe pháp khác
nữa từ đức Thế Tôn.
Rồi Tôn giả A Nan và sa di Châu Na cùng nhau đến chỗ đức Phật,
chắp tay cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài, Tôn giả A nan đứng qua
một bên và Châu Na ngồi xuống một bên. Tôn giả A nan bạch với
đức Thế Tôn:
Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay sa di Châu Na đi đến chỗ con, cúi đầu
đảnh lễ sát chân rồi ngồi qua một bên. Con hỏi: này Hiền giả
Châu Na, từ nơi nào đến đây và an cư mùa mưa ở đâu? Sa di Châu
Na liền trả lời với con rằng: "Thưa Tôn giả A Nan, con từ Ba Hòa
đến, an cư mùa mưa ở Ba Hòa. Bạch Tôn giả A nan! Tại Ba Hòa có
một Ni Kiền tên là Thân Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời không
bao lâu thì các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại
nhau; họ đấu tranh, kiện tụng, cột trói lẫn nhau, thù nghịch
nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không
biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết Ta nói từ tốn, còn
ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp.
Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau, điều đáng nói sau ngươi nói
trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc
ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn
hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ ta sẽ cột trói ngươi.” Họ kiêu mạn
và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn mà không có
người nào để khiển trách.
Nếu có những người bạch y tại gia, đêï tử của Ni Kiền Thân Tử,
thấy vậy, họ đều chán nản và lãng xa các đệ tử của Ni Kiền Thân
Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác pháp
luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác,
không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại
không thể đứng vững, không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì
bậc thầy của họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước,
Ðẳng Chánh Giác.
Bạch Thế Tôn! Con nghe rồi kinh sợ hãi hùng, toàn thân lông tóc
dựng đứng. Mong sau khi Thế Tôn khuất bóng, đừng có một vị Tỳ
kheo nào ở trong chúng mà gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu
tranh ấy, không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Nó
không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và
khoái lạc, cho đến loài trời và loài người cũng phải chịu đau
khổ và tại hoạn. Bạch Thế Tôn! khi con thấy một vị Tỳ kheo ngồi
trước đức Thế Tôn chí tâm kính trọng đức Thế Tôn, khéo bảo vệ
đấng Thiện thệ. Bạch Thế Tôn! Con thấy như vậy rồi liền nghĩ:
"Nếu sau này khi Thế Tôn khuất bóng mà vị Tỳ kheo ấy trong chúng
gây sự đấu tranh, thì đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà
chỉ gây đau khổ cho mọi người, nó không phải là sự thiện lợi và
hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc cho đến loài trời,
loài người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn.
Bấy giờ đức Thế Tôn hỏi: "Thầy thấy những điều nào khiến chúng
tăng có sự đấu tranh, sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai
mà chỉ gây khổ cho mọi người. Không phải là sự thiện lợi và hữu
ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc cho đến loài trời, loài
người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn?
Tôn giả A Nan thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Ðó là do tăng thượng
giới, tăng thượng tâm, tăng thượng quán [7] mà phát sanh sự đấu
tranh ở trong chúng. Bạch Thế Tôn, sự đấu tranh ấy, không giúp
gì cho ai mà chỉ gây đau khổ cho mọi người. Nó không phải là sự
thiện lợi, không phải là sự hữu ích. Không phải là sự an ổn,
khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu tai hoạn,
đau khổ.
Ðức Thế Tôn nói:
Này A nan! Nếu đấu tranh do bởi giới tăng thượng, tâm tăng
thượng, quán tăng thượng thì sự đấu tranh ấy quá nhỏ nhặt. Này A
nan! Nếu có sự đấu tranh trong chúng tăng do đạo và đạo tích [8]
thì sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây khổ cho
mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải
là sự an ổn khoái lạc. Này A Nan! Khi thầy thấy ở trong đấy có
hai vị Tỳ kheo vì mỗi người có mỗi ý kiến khác nhau mà gây ra
cuộc đấu tranh mà nói rằng: "Ðiều này là pháp, điều này là phi
pháp. Ðiều này là luật, điều này không phải luật. Ðiều này là
phạm, điều này không phải là phạm. Ðiều này là nhẹ, điều này là
nặng. Có thể sám hối, không thể sám hối. Có thể thủ hộ, không
thể thủ hộ. Hữu dư, vô dư, thối, bất thối. Này A Nan! Ý thầy
nghĩ sao? Ðối với pháp tu của Ta được tự giác, tự thân chứng
ngộ, gồm bốn niệm xứ, bốn như ý túc, năm căn, năm lục, bảy giác
chi, tám chi thánh đạo? Này A Nan! Nếu Ni Kiền Thân Tử, biết tất
cả, thấy tất cả thì vị ấy đã vì đệ tử mà giảng giải sáu gốc rễ
của đấu tranh [10] đều đáng được nghe, nhưng lại thôi.
Bấy giờ Tôn giả A Nan chắp tay hướng về đức Phật bạch rằng:
Bạch Thế Tôn! Nay thật là đúng lúc. Bạch Thiện thệ! Nay thật hợp
thời, nếu Thế Tôn dạy về sáu gốc rễ của sự đấu tranh cho các Tỳ
kheo. Các Tỳ kheo sau khi nghe Thế Tôn dạy sẽ khéo léo thọ trì.
Ðức Thế Tôn bảo:
Này A Nan, hãy nghe kỹ; hãy suy nghĩ kỹ. Ta sẽ phân biệt đầy đủ.
Tôn giả A Nan bạch rằng:
Kính vâng, xin vâng lời lắng nghe.
Ðức Phật dạy:
Này A Nan! Ở đây có một người bị kiết sử phẫn và hận quấn
chặt[11] . Này A Nan! Người ấy bị kiết sử phẫn và hận quấn chặt
cho nên không cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ
gìn giới luật. Người ấy đã không cung kính tôn sư, không thấy
được pháp, không giữ gìn giới luật, ở trong chúng nó gây ra sự
đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ
gây khổ cho mọi người, không phải sự thiện lợi và hữu ích, không
phải là sự an ổn khoái lạc, cho đến trời người phải chịu đau khô
và tai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên
trong hay bên ngoài mà không dứt hết được. Vậy, để đoạn trừ sự
đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập
tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kiên nhẫn, đừng để thối thất.
Này A Nan! Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy áo, thì
phải cấp tốc tìm phương tiện để chửa cháy đầu, chửa cháy áo .
Cũng vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay
bên ngoài mà không dứt hết được. Vậy để đoạn trừ sự đấu tranh
ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần,
chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A nan! Sự
đấu tranh cũng như vậy, nếu thầy thấy được suốt trong và ngoài,
thầy phải thủ hộ cái tâm đó hơn nữa, luôn luôn không buông lung,
vì để ngăn chận sự đấu tranh ấy vậy. [12] Cũng giống như vậy với
các kiết sử phú tàng [13] , bỏn xẻn, tật đố, dua nịnh, dối trá,
vô tàm, vô quý, ác dục, tà kiến, và ác tánh không biết phục
thiện. [14]
Này A Nan! Nếu một người nào có ác dục, tà kiến, ác tánh, không
biết phục thiện thì người ấy không tâm cung kính tôn sư, không
thấy được pháp, không giữ gìn giới luật, rồi ở trong chúng nó
gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho
ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Không phải là thiện lợi, không
phải là hữu ích, không phải là an ổn khoái lạc, cho đến trời
người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy
thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay ở bên ngoài, mà không
biết suốt hết được. Vậy để ngăn chận sự đấu tranh ấy, thầy phải
nhanh chóng tìm cầu phương tiện học tập tinh cần, chánh niệm
chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A nan! Ví như có
người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy áo thì phải cấp tốc tìm cầu
phương tiện để chửa cháy đầu, cháy áo. Cũng vậy, nếu thầy thấy
sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài mà không biết
suốt hết được, vậy để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh
chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm chánh
trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A Nan! Nếu sự đấu tranh
như vậy mà thầy thấy suốt hết trong và ngoài, thầy phải hết sức
thủ hộ cái tâm ấy hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì để
ngăn chận sự đấu tranh ấy vậy. Thầy phải đoạn trừ gốc rễ của sự
đấu tranh ấy.
Lại nữa, này A nan! Có bảy phương pháp diệt trừ đấu tranh [15] .
Bảy phương pháp đó là: Một là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật,
hai là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Ba là ưng dữ bất si dữ tránh
luật, bốn là ưng dữ phát lồ chỉ tránh luật, năm là ưng dữ quân
chỉ tranh luật, sáu là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật, bảy
là ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tranh luật.
Này A Nan! Thế nào là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật? Làm thế
nào để đoạn trừ sự đấu tranh này? tức là luật chấm dứt đấu tranh
bằng sự hiện diện. Này A Nan! Hoặc một người đối với một người,
mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn
sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Một người
đối với hai người, một người đối với nhiều người, một người đối
với chúng tăng mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng
pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được
hoan hỷ. Hai người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển
trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự
hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với nhiều người, hai
người đối với chúng tăng, hai người đối với một người mà khuyến
giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ
giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với
nhiều người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp
luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan
hỷ. Nhiều người đối với chúng tăng, nhiều người đối với một
người, nhiều người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển
trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo với sự
hiện diện khiến được hoan hỷ. Chúng tăng đối với một người,
chúng tăng đối với hai người, chúng tăng đối với nhiều người mà
khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư
đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. [17] Này A
Nan! Như vậy gọi là Ưng dữ hiện tiền chỉ tránh luật. Sự đấu
tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh
bằng sự hiện diện.
Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ ức chỉ tránh luật? làm thế nào để
đọan trừ sự tranh đấu này? Tức là do chấm dứt đấu tranh bằng nhớ
lại. Này A Nan! Nếu có một người nào phạm giới mà không nhớ lại
giới mình đã phạm. Các thầy Tỳ kheo thấy vậy, nói với vị ấy
rằng:
Thầy đã phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã phạm. Thầy hãy
đến trong chúng mà xin luật ức niệm. Tăng chúng sẽ ban cho hiền
giả luật ức niệm. Này A nan! nếu ở một nơi nào có tăng chúng hòa
hiệp mà nhóm họp vị Tỳ kheo kia phải đến đó, trịch vai áo, bỏ
guốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc trưởng
lão thượng tôn Tỳ kheo, chắp tay quỳ mọp mà bạch với các trưởng
lão thượng tôn rằng: Bạch chư tôn, mong các ngài nghe cho, con
đã từng phạm giới mà không nhớ, hay con từ nơi chúng tăng cầu
xin luật ức niệm. Mong tăng chúng hòa hợp ban cho con luật ức
niệm.
Này A nan! Tăng chúng hòa hợp lại để ban cho vị Tỳ kheo này luật
ức niệm, bằng pháp và luật như tôn sa đã chỉ dạy, với sự hiện
diện khiến cho được hoan hỷ. [19] . Này A Nan! Như vậy gọi là
ưng dữ ức chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như
vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng cách nhớ lại.
Này A Nan! Thế nào là ưng dữ bất si chỉ tránh luật? [20] Làm thế
nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là luật chấm dứt đấu tranh
bằng sự không si cuồng. Này A nan! nếu có một người do phát
cuồng mà tâm điên đảo, nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không
phải là pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà nói
vi phạm. Người ấy sau khi trở lại tâm trạng như trước, gặp các
Tỳ kheo và được bảo rằng: "Thầy đã phát cuồng và tâm điên đảo,
do phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh,
không phải pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà
nói vi phạm. Này Hiền giả! Nếu Hiền giả sau khi trở lại tâm
trạng như trước, hiền giả có thể đến nơi chúng tăng mà cầu xin
luật bất si. Chúng tăng sẽ ban cho hiền giả luật bất si. Này A
Nan , nếu một nơi nào đó tăng chúng đang hòa hợp và nhóm hội, vị
Tỳ kheo ấy nên đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong tăng
chúng, cúi đầu lễ sát dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ
kheo chắp tay quì mọp, mà bạch với các trưởng lão thượng tôn Tỳ
kheo rằng: "bạch chư tôn, xin nghe cho, con đã từng phát cuồng
và tâm điên đảo. Do con đã phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá
nhiều bất tịnh hạnh không phải là pháp của sa môn, không tùy
thuận theo pháp hạnh mà còn nói vi phạm. Về sau con trở lại tâm
trạng như trước. Nay con từ nơi chúng tăng xin cầu luật bất si.
Mong chúng tăng hòa hợp ban cho con luật bất si. Này A Nan,
chúng tăng cùng hòa hợp và nhóm hội, ban cho vị Tỳ kheo ấy luật
bất si, bằng pháp và luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện
diện, khiến được hoan hỷ. Này A Nan, đó gọi là ưng dữ bất si chỉ
tránh luật. Sự đấu tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do luật
chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng.
Này A Nan! Thế nào là ưng dữ tự phát lồ chỉ tranh luật [21]? Sự
đấu tranh làm thế nào để chấm dứt? Tức do luật chấm dứt đấu
tranh bằng sự tự thú nhận. Này A Nan, nếu có một người phạm
giới, hoặc nói ra hay không nói ra, hoặc có nhớ hay không nhớ.
Này A Nan , nếu tại nơi nào đó có chúng tăng đang hòa hợp và
nhóm hội. Vị Tỳ kheo kia nên đến đó, trịch vai áo, bỏ giốc, vào
trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc trưởng lão thượng
tôn Tỳ kheo, chắp tay quì mọp mà bạch rằng: "Bạch chư tôn, xin
nghe cho, con phạm giới đó, con nay hướng về các bậc trưởng lão
thượng tôn Tỳ kheo, chí tâm phát lồ, tự mình nói và trưng bày
rõ, không dám che dấu, từ nay về sau sẽ khéo léo hộ trì không
tái phạm. Này A nan , chúng Tỳ kheo nên hỏi vị ấy rằng: "Này
Hiền giả, có tự thấy điều mình phạm không?" Vị Tỳ kheo ấy đáp:
"Con thật sự có thấy điều con phạm”. Ðại chúng cũng nên nói với
vị ấy rằng: "Hiền giả nên cẩn thận giữ gìn đừng tái phạm”. [22]
Này A Nan! Ðó là ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật. Sự đấu tranh
ấy phải được đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh
bằng sự từ thú nhận.
Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ quân chỉ tranh luật? [23] Làm sao
để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng
chín đương nhơn. Này A Nan! Nếu có người không biết xấu hổ,
không hối hận những tội bị thấy, bị nghe và bị người khác nghi
ngờ là ác dục. người ấy đã phạm giới rồi nói là mình biết ở một
nơi, mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình biết ở một nơi này,
lại nói mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình thấy ở một nơi,
lại nói mình biết ở một nơi. Ở trong tăng chúng mà nói là mình
biết ở một nơi, ở trong tăng chúng mà nói là mình thấy ở một
nơi. Nói mình biết ở một nơi, rồi lại nói mình thấy ở một nơi.
Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A
Nan! Vì vị Tỳ kheo ấy, tăng chúng hòa hiệp và nhóm họp mà ban
luật Dương nhơn [24] mà nói rằng: "Nhà ngươi không đạo lý, nhà
ngươi ác bất thiện. Vì sao? Vì ngươi đã phạm giới rồi lại nói
mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một
nơi, rồi lại nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi,
rồi lại nói mình biết ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình biết
ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình thấy ở một nơi. Nói mình
thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A Nan! Như
vậy gọi là Ưng dữ quân chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được
đoạn trừ bằng sự như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng
chính dương nhơn.
Này A Nan! Thế nào là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật [25]?
Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là do luật chấm dứt
đấu tranh bằng sự diển tiến. Này A Nan! Ở đây, giữa hai vị Tỳ
kheo vì một số ý kiến mà gây ra sự đấu tranh như vầy: "Ðây là
pháp, đây phi pháp. Ðây là luật, đây không phải là luật; đây là
phạm, đây không phải là phạm; đây là nhẹ, đây là nặng; điều này
nên nói, điều này không nên nói; điều này đáng thủ hộ, điều này
không đáng thủ hộ; điều này còn dư, điều này không còn dư; điều
này có thể sám hối, điều này không thể sám hối. Này A Nan! Vị Tỳ
kheo kia ngay tại chỗ đang cải vã ấy mà chấm dứt đấu tranh. Nếu
ngay tại chỗ cải vã mà chấm dứt đấu tranh, thì sự đấu tranh này
được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ngay tại chỗ cải vã mà không chấm
dứt, có thể đưa sự đấu tranh ra bạch với chúng tăng. Nếu ở trong
chúng tăng mà chấm dứt, thì sự đấu tranh ấy được tuyên bố là
chấm dứt. Nếu trong chúng tăng không chấm dứt, thì này A Nan! Ở
trong đó, gần đó có Tỳ kheo giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận [26]
, các Tỳ kheo kia cùng đến vị này thưa việc đấu tranh ấy. Nếu
ngay trên đường đi mà chấm dứt, thì sự đấu tranh được tuyên bố
là chấm dứt. Nếu ngay trên đường đi mà không chấm dứt, lại hãy
đem sự đấu tranh ấy nói trước chúng tăng. Nếu ở trước chúng tăng
mà chấm dứt, sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ở
tại chúng tắng mà không chấm dứt thì này A Nan, nếu nhiều trò
bạn giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận, thì các vị này phải chấm
dứt sự đấu tranh ấy bằng pháp và luật như tôn sư đã chỉ giáo,
với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Này A Nan, như vậy gọi là
ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được
đoạn trừ như vậy, tức là do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự
triển chuyển.
Này A Nan! Thế nào gọi là Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh
luật[27]? Làm sao để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là luật chấm
dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách. Này A Nan! Nếu các vị Tỳ
kheo ở chung một chổ tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch
nhau, oán ghét nhau. Này A Nan! Do đó các Tỳ kheo kia chia ra
hai nhóm. Sau khi chia ra hai nhóm rồi, trong một nhóm có bậc
trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, hay dưới trưởng lão một bậc; hoặc
có người làm tông chủ hay nhỏ hơn tông chủ một bậc. Này A Nan!
Vị Tỳ kheo này nói với các vị Tỳ kheo kia rằng: "Này chư hiền,
xin nghe cho, chúng ta không có đạo lý, chúng ta là người ác bất
thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối với pháp và luật được khéo
giảng dạy mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, để
học đạo, nhưng chúng ta tranh chấp kiện tụng nhau, thù nghịch
nhau, oán ghét nhau, cải vã nhau. Này chư hiền do sự tranh chấp
này mà chúng ta đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu lan giá [28] và
ngoại trừ tội tương ưng với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và
cũng vì chư hiền nữa, nên hướng đến chư hiền phát lồ, tự nói mà
trình bày rõ ràng, không dám che dấu, lại cẩn thận giữ gìn sau
không tái phạm nữa.
Này A Nan! nếu ở trong nhóm này mà không có vị Tỳ kheo nào ứng
theo, thì này A Nan! Tỳ kheo ấy nên đi đến nhóm thứ hai. Ðến nơi
rồi, cúi đầu đảnh lễ các bậc thượng tôn trưởng lão Tỳ kheo chắp
tay quì mọp mà thưa rằng: "Thưa chư tôn, xin nghe cho, chúng ta
không có đạo lý, chúng ta là người ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì
chúng ta đối với pháp và luật được khéo giảng dạy mà chí tín, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo, nhưng chúng ta
tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cải
vã nhau. Này chư hiền, do sự tranh đấu này mà chúng ta đã phạm
giới, ngoại trừ tội Thâu lan giá, và ngoại trừ tội tương đường
với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chính chư hiền
nữa, nên hướng đến chư hiền chí tâm phát lồ, tự nói mà trình bày
rõ ràng, không dám che giấu, lại cẩn thận giữ gìn sau không tái
phạm nữa.
Này A Nan! các Tỳ kheo kia nên nói với vị Tỳ kheo này như vầy:
"Này hiền giả! Thầy tự thấy mình phạm giới chăng?
Vị Tỳ kheo này đáp:
Quả thật tôi tự thấy mình đã phạm giới.
Tỳ kheo kia nên nói:
Vậy hãy cẩn thận giữ gìn, đừng để tái phạm."
Nhóm thứ hai cũng làm như vậy. Này A Nan, như vậy gọi là Ưng dữ
như khí phấn tảo chỉ tránh luật. Này A Nan! Sự đấu tranh ấy phải
được đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh như quăng
bỏ dẻ rách.
Này A Nan! Nay ta nói cho thầy sáu pháp ủy lao [29] , hãy lắng
nghe kỹ, hãy khéo suy nghĩ kỹ. Tôn giả A Nan bạch rằng: Kính
vâng, con xin vâng lời lắng nghe. Ðức Phật dạy:
Thế nào là sáu: Thần nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm
hạnh [30] , pháp ấy gọi là pháp ủy lao. Ðó là pháp khả ái, là
pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho
phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa
thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng
đắc Niết Bàn.
Khẩu nghiệp nói năng từ hòa, ý nghiệp từ hòa, có lợi lộc nào
đúng pháp mà được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của
mình, với phần lợi như vậy, mang chia xẻ cho các vị đồng phạm
hạnh [32] , pháp đó gọi là pháp ủy lao, là pháp khả ái, pháp khả
lạc, khiến cho ái niệm khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự,
khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được
là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết
Bàn.
Nếu có giới nào không bị sứt mẽ, không bị hư thủng, không bị dơ,
không bị đen, vững vàng như mặt đất [33] được thánh khen ngợi,
đầy đủ cẩn thận, thọ trì. Với giới phần như vậy, cùng chia xẻ
với các vị đồng phạm hạnh [34] , pháp đó là pháp ủy lao, là pháp
khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng,
khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến
cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh
cần, chứng đắc Niết Bàn.
Nếu có kiến giải của thánh có sự xuất yếu, có sự thấy rõ, có sự
thấu triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến phần như
vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, [35] , pháp đó là
pháp ủy lao là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm,
khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính,
khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự
nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.
Này A Nan! Ta vừa nói sáu pháp ủy lạo, vì vậy mà ta giảng giải.
Này A Nan! Nếu các thầy đối với sáu gốc rễ của đấu tranh mà đoạn
tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp chấm dứt đấu tranh, khi trong
tăng chúng khởi lên đấu tranh, thì chấm dứt bằng luật chấm dứt
đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy
lạo ấy, thì này A Nan! Như vậy sau khi Ta khuất bóng, các con
sống cộng đồng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, cùng đồng nhất
trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như
nước với sữa, khoái lạc du hành như lúc Ta còn tại thế.
Ðức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A Nan và chư Tỳ kheo sau khi
nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [1] Tương đương
Pali: M.103. Sàmagàma sutta.
- [2] Bạt Kỳ,
Xá di thôn: Địa danh này khó đồng nhất với Pali:
Sakkesu [...] Sàmagame, là một ngôi làng của giòng
họ Sakya.
- [3] Sa di
Châu Na: Cunda samuddesa. Được đồng với Maha
Cunnda em ruột ngài Saributta và đắc quả A na hàm trong
lúc làm sa di. [xem PP.11.877-8] .
- [4] Ba Hòa:
Pàvà , một thị trấn của bộ tộc Malla. Đoạn đường cuối
cùng của Phật, đi từ Pàvà đến Kusinàrà và ngài
dừng chân để nghỉ 25 lần trên đoạn đường ấy.
- [5] Ni Kiền
Thân Tử: Nigantha-Nàta-punta. Một trong lục sư
ngoại đạo.
- [6] Ngài A Nan
là bổn sư của Châu Na.
- [7] Bản Pali:
do ajihàjìva và do adhipatimokkha:Tăng thượng
hoặc mạn và tăng thượng giới bổn. [Bản Việt: III.tr.244-245] ,
cả hai đều chỉ liên hệ đến giới luật. Bản Hán nói do cả giới
định tuệ.
- [8] Đạo và
đạo tích: Pali: Magga và Pàtipàda. Con đường dẫn
đến chứng ngộ và sự tụ tập con đường ấy.
- [9] Tát vân
nhã: phiên âm trong Pali: Sabbannu.
- [10] Lục
tranh bốn:
- [11] Sân não
kết triền: Phẩn hận và thù nghịch.
- [12] Trong bản
hán có một đoạn lặp lại, từ chỗ: "Ví như có người bị lửa cháy
đầu”, cho đến đây.
- [13] Bất ngũ
kết:
- [14] Ac tánh
bất khả chế: thuật ngữ thường nói là: "Ác tánh bất thọ
nhơn ngữ ! Tánh ương ngạnh không chịu nghe lời. Đoạn này
tóm tắt, liệt kê các cập kiết sử làm nguyên nhân cho đấu
tranh, có thể xếp loại theo thuật ngữ thông dụng: Phẩn-hận,
phú, não, tật, xan, cuồng, siểm, vô tàn vô quý, ác dục, tà
kiến, xem thêm đối chiếu kinh 98 trên. Xem giải thích Tập
Dị 15 [DTK.1536, tr.431a-b]
- [15] Thất
chỉ tránh: Thuật ngữ luật tạng thường nói là: Thất diệt
tránh pháp: Pali: Satta
adhikarapa samathà.
- [16] Ưng dữ
diện tiền chỉ tránh luật: nói là Hiện tiền Tỳ ni:
Nếu phán quyết về một tội trạng của một Tỳ kheo, hoặc trục
xuất hoặc nói các biện pháp chế tài, phải có sự hiện diện của
Tỳ kheo ở đó, ở đây, Phật cũng giảng giải về các cách phán
quyết hiện diện đó. Pali: Sammukkhàvinaya dàtabba .
- [17] Các trường
hợp áp dụng luật hiện tiền: Có trường hợp chỉ cần một người
chỉ trích một người, có trường hợp phải do số đông. Luật tạng
còn phân biệt chi tiết, phải đủ ba yếu tố hiện tiền, phán
quyết nói có giá trị: Pháp hiện tiền: dẫn chứng các lời
Phật dạy. Luật hiện tiền: nêu rõ điều luật bị phạt và
nhơn hiện tiền: phải có sự hiện diện của đương sự. Nếu
trường hợp cần đại tăng, phải thêm hai yếu tố. Đó là Tăng
hiện tiền, và giới hiện tiền, tức giới hạn của
phòng hợp với sự hạn chế được luật quy định [Xem luật Tứ Phần,
17. DTK.1428, tr.915c-7c] .
- [18] Ưng dữ
ức chỉ tránh luật: cũng thường nói là ức niệm Tỳ ni.
- [19] Tỳ kheo
Đáp bà ma la bị các vị khác nghi ngờ phạm trọng tội, nên nhiều
lần bị cật vấn, và do đó rất khổ tâm về vụ này. Nhân đó Phật
thiết lập luật ức niệm tỳ ni, để vị ấy đến trước tăng chúng
nói rằng mình không nhớ, và khi chúng tăng đã phán
quyết theo luật ức niệm tỳ ni, không ai được coi vị ấy là
người đã phạm tội [Luật tứ Phần, dd, tr, 914a] .
- [20] Bất si
chỉ tránh luật: cũng thường nói là bất si tỳ ni.
- [21] Ưng dữ
tự phát lồ chỉ tránh luật: Cũng nói là Tự ngôn trì Tỳ
nại da: Thông thường hơn: Tự ngôn trị diệt tránh:
- [22] Vào ngày
Bố tát, Tôn giả A Nan thỉnh Phật đến trước chúng tăng thuyết
giới. Phật từ chối, Ngài nói không thuyết giới kiết ma trước
một đại chúng không thanh tịnh. Tôn giả Mục Kiền Liên nhân đó
quán sát chúng tăng, biết được một Tỳ kheo phạm giới, bèn đến
nắm tay kéo ra khỏi giới trường. Phật liền trách Mục Kiền
Liên, và thiết lập điều luật này: Trước khi phán quyết một Tỳ
kheo phạm giới, phải làm cho vị ấy nhận tội đã. [dd, tr.915a]
- [23] Ưng dữ
quân chỉ tránh: cũng nói: cầu bỉ tự tánh tỳ nại da:
hay thông thường hơn: mích tội tướng.
- [24] Quân
luật: luật áp dụng cho chính Ngài. Vì vị này khi bị hỏi
tội, cứ nói loanh quanh, nên tăng chúng phải chỉ định ngay tội
danh: Chính Ngài đã phạm tội.
- [25] Ưng dữ
triển chuyển chỉ tránh luật: cũng nói là Thủ đa nhơn tỳ
nại da: hay Đa mích tội tướng:
- [26] Trì mẫu:
hay nói là Trì ma di: [Luật Tứ Phần 17, DTK.1428,
tr.918b] .
- [27] Ưng dữ
như khí phấn tảo chỉ tránh luật: cũng nói: Như thảo phú
địa Tỳ nại da:
- [28] Thâu
lan thác: thường nói là Thâu lan giá: các tội nhẹ
hơn Ba la di [tội trục xuất] và tăng già bà thi sa [tội biệt
chúng] một bậc.
- [29] Lạc ủy
lạo pháp: sáu pháp này thường được biết là sáu pháp hòa
kỉnh hay lục hòa. Tập dị 15 [DTK.1536, tr.431b] , gọi là
sáu pháp khả hỷ.
- [30] Từ thân
nghiệp: Đây là thân hòa đồng trú .
- [31] Từ khẩu
nghiệp, từ ý nghiệp: thường nói: Khẩu hòa vô tránh và ý
hòa đồng duyệt.
- [32] Lợi hòa
đồng quân.
- [33] Như địa
bất tùy tha.
- [34] Giới hòa,
kiến hòa.
- [35] Kiến hòa
đồng giải.
|