-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại thành Vương xá, ở tại
Trúc lâm, trong vườn Ca-lan-đà.
Bấy giờ Sa-di A-di-na-hòa-đề
[02], cũng ở tại thành Vương xá, tại một cốc thiền,
trong khu rừng vắng. Lúc bấy giờ Vương đồng tử Kì-bà-tiên-na
[03], sau giờ trưa, thong dong đi đến Sa-di
A-di-na-hòa-đề, cùng chào hỏi xong, ngồi xuống một bên hỏi
rằng:
“Hiền giả A-kì-xá-na
[04], tôi có điều muốn hỏi, mong Hiền giả nghe cho
chăng?”
Sa-di A-di-na-hòa-đề nói:
“Hiền Vương đồng tử, muốn hỏi xin cứ hỏi. Tôi
nghe rõ rồi sẽ suy nghĩ.”
Vương đồng tử hỏi:
“Hiền giả A-kì-xá-na, phải chăng thật sự
Tỳ-kheo ở trong Pháp Luật này không phóng dật, tu hành tinh
cần, sẽ đạt đến nhất tâm chăng?”
Sa-di đáp:
“Hiền Vương đồng tử, thật sự như vậy, Tỳ-kheo ở
trong Pháp Luật này, không phóng dật, tu hành tinh cần sẽ đạt
được nhất tâm.”
Vương đồng tử lại hỏi:
“Hiền giả A-kì-xá-na, mong Hiền giả theo những
điều đã nghe, đã tụng tập, nói lại hết cho tôi rõ, như Tỳ-kheo
trong Pháp Luật này không phóng dật, tu hành tinh cần sẽ đạt
đến nhất tâm.”
Sa-di đáp:
“Hiền Vương đồng tử, tôi không đủ sức để theo
những điều đã nghe, đã tụng tập nói lại hết cho Vương tử, như
Tỳ-kheo ở trong Pháp Luật này không phóng dật, tu hành tinh
cần, sẽ đạt đến nhất tâm. Hiền Vương tử, nếu tôi theo những
điều đã nghe, đã tụng tập nói lại hết cho Vương tử, như
Tỳ-kheo ở trong Pháp Luật này không phóng dật, tu hành tinh
cần, sẽ đạt đến nhất tâm. Hoặc Hiền giả Vương tử không thể
hiểu được. Như vậy thì tôi nhọc công vô ích.”
Vương đồng tử nói với Sa di:
“Hiền giả A-kì-xá-na, Hiền giả chưa bị người
khác chiết phục, vì ý gì mà đã tự mình rút lui? Hiền giả
A-kì-xá-na, mong Hiền giả cứ theo những điều đã nghe, đã tụng
tập, có thể nói lại hết cho tôi, như Tỳ-kheo ở trong Pháp Luật
này không phóng dật, tu hành tinh cần sẽ đạt đến nhất tâm, nếu
tôi hiểu được thì hay lắm, nhưng nếu tôi không hiểu sẽ không
hỏi thêm về các pháp nữa.”
Rồi thì Sa-di A-di-na-hòa-đề theo những pháp đã
nghe, đã tụng tập, nói lại cho Vương đồng tử Kì-bà-tiên-na,
như Tỳ-kheo ở trong Pháp Luật này, không phóng dật, tu hành
tinh cần, sẽ đạt đến nhất tâm. Bấy giờ Vương đồng tử
Kì-bà-tiên-na nói:
“Hiền giả A-kì-xá-na, nếu Tỳ-kheo ở trong Pháp
Luật này không phóng dật, tu hành tinh cần, sẽ đạt đến nhất
tâm; không bao giờ có trường hợp này.”
Nói xong, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, không nói
lời từ giã mà bỏ đi. Vương đồng tử Kì-bà-tiên-na đi chưa bao
lâu, rồi Sa-di A-di-na-hòa-đề đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ
và ngồi sang một bên, đem những điều đã thảo luận với Vương
đồng tử Kì-bà-tiên-na kể hết lại cho Đức Phật. Đức Thế Tôn
nghe xong, nói với Sa-di:
“A-kì-xá-na, thôi đủ rồi. Làm sao có thể biết
được, khi Vương đồng tử Kì-bà-tiên-na sống trong dục vọng, bị
dục ái nhai nuốt, bị dục vọng đốt cháy. Đối với sự đoạn trừ
dục, đoạn trừ ái, đoạn trừ sự đốt cháy của dục, tình trạng mà
chỉ có địa vị
[05] vô dục mới biết, vô dục mới hay, vô dục mới
chứng giác; địa vị ấy mà Vương đồng tử có thể biết được, thấy
được, không thể có trường hợp này. Vì sao vậy? Này A-kì-xá-na,
vì Vương đồng tử Kì-bà-tiên-na thường sống trong dục vọng vậy.
“A-kì-xá-na, cũng như trong bốn trường hợp điều
ngự
[06]; điều ngự voi, điều ngự ngựa, điều ngự bò, điều
ngự người. Trong đó có hai trường hợp điều ngự có thể điều
ngự, và hai trường hợp điều ngự không thể điều ngự
[07] A-kì-xá-na, ý ngươi nghĩ sao? Nếu trong hai
trường hợp điều ngự không thể điều ngự ấy; ở đây chưa điều
phục tình trạng chưa điều phục, chưa được huấn luyện mà tiếp
nhận sự huấn luyện, trường hợp này không thể có
[08]. Nếu trong hai trường hợp điều ngự có thể điều
ngự này, khéo điều ngự; ở đây điều phục tình trạng chưa điều
phục, huấn luyện để tiếp nhận sự huấn luyện, trường hợp này có
thể có
[09]
“Cũng vậy, ở đây, A-kì-xá-na, thôi đủ rồi. Làm
sao có thể biết được, khi Vương đồng tử Kì-bà-tiên-na sống
trong dục vọng, bị dục ái nhai nuốt, bị dục vọng đốt cháy. Đối
với sự đoạn trừ dục, đoạn trừ ái, đoạn trừ sự đốt cháy của
dục, tình trạng mà chỉ có địa vị
[10] vô dục mới biết, vô dục mới hay, vô dục mới
chứng giác; địa vị ấy mà Vương đồng tử có thể biết được, thấy
được, không thể có trường hợp này. Vì sao vậy? Này A-kì-xá-na,
vì Vương đồng tử Kì-bà-tiên-na thường sống trong dục vọng vậy.
“A-kì-xá-na, cũng như cách xóm không xa có một
hòn núi đá lớn, không sứt, không thủng, không trống, bền chặt,
không lung lay, hợp thành khối duy nhất. Giả sử có hai người
đang muốn nhìn ngắm, trong đó có một người leo nhanh lên núi,
người thứ hai đứng dưới chân núi. Người đứng trên núi đá nhìn
thấy bên kia núi đá có khoảng đất bằng phẳng, vườn tược, cây
rừng, suối trong, ao hoa, sông dài, nước lớn. Người trên núi
sau khi thấy, bèn hỏi người dưới núi rằng, ‘Bạn có thấy bên
kia núi có khoảng đất bằng phẳng, vườn tược, cây rừng, ao hoa,
suối trong, sông dài, nước lớn chăng?’ Người dưới núi đáp,
‘Nếu tôi thấy hòn núi này, với bên kia có khoảng đất bằng
phẳng, vườn tược, cây rừng, suối trong, ao hoa, sông dài, nước
lớn, trường hợp này không thể có.’ Rồi người trên núi leo
nhanh xuống, nắm người dưới núi dẫn lên trên hòn núi đá. Đến
nơi rồi hỏi, ‘Bạn có thấy bên kia núi có khoảng đất bằng
phẳng, vườn tược, cây rừng, suối trong, ao hoa, sông dài, nước
lớn chăng?’ Người kia đáp, ‘Bây giờ tôi mới thấy.’ Lại hỏi
người kia, ‘Vừa rồi bạn nói rằng không thể có trường hợp này,
nay lại nói là thấy có; thế nghĩa là sao?’ Người kia đáp, ‘Vừa
rồi tôi bị hòn núi che khuất nên không thấy.’
“Cũng vậy, A-kì-xá-na, thôi đủ rồi. Làm sao có
thể biết được, khi Vương đồng tử Kì-bà-tiên-na sống trong dục
vọng, bị dục ái nhai nuốt, bị dục vọng đốt cháy. Đối với sự
đoạn trừ dục, đoạn trừ ái, đoạn trừ sự đốt cháy của dục, tình
trạng mà chỉ có địa vị
[11] vô dục mới biết, vô dục mới hay, vô dục mới
chứng giác; địa vị ấy mà Vương đồng tử có thể biết được, thấy
được, không thể có trường hợp này. Vì sao vậy? Này A-kì-xá-na,
vì Vương đồng tử Kì-bà-tiên-na thường sống trong dục vọng vậy.
“Này A-kì-xá-na, thuở xưa, vua Sát-lợi Đảnh
Sanh có một người thợ săn voi. Vua nói, ‘Này thợ săn voi. Hãy
bắt voi rừng về đây cho ta. Nếu bắt được rồi hãy báo cho ta
hay.’ Bấy giờ thợ săn voi sau khi lãnh mạng của vua, bèn cỡi
vương tượng đi đến một khu rừng già. Ở trong khu rừng già này,
người thợ săn trông thấy một con voi rừng rất lớn. Sau khi
thấy, bèn bắt và cột vào cổ con vương tượng. Lúc bấy giờ con
vương tượng dẫn voi rừng ra ngoài khoảng đất trống, còn người
thợ săn voi thì đi đến vua Sát-lợi Đảnh Sanh thưa rằng, ‘Tâu
thiên vương, thần đã bắt được con voi rừng, cột ở khoảng đất
trống, xin theo ý thiên vương!” Vua Sát-lợi Đảnh Sanh nghe
tâu, liền bảo rằng, ‘Này nài voi giỏi, bây giờ ngươi hãy huấn
luyện nhanh chóng con voi rừng đó khiến nó khuất phục, khiến
nó thành con voi được huấn luyện kỹ. Nếu huấn luyện đã hoàn
hảo rồi, hãy trở về báo cho ta biết.’ Rồi người huấn luyện voi
giỏi sau khi vâng mạng vua, vác cây gậy rất lớn trên vai hữu,
đi đến chỗ con voi rừng. Người ấy cắm cây gậy xuống đất, cột
cổ voi rừng lại, chế ngự tâm ý vui thích núi rừng của nó, trừ
khử tâm niệm ham muốn núi rừng, dứt bỏ mệt nhọc núi rừng,
khiến cho nó vui thích thôn ấp, tập yêu người đời.
“Người huấn luyện voi giỏi trước hết cho nó ăn
uống. Này A-kì-xá-na, khi voi rừng bắt đầu nghe theo thợ huấn
luyện voi giỏi mà chịu ăn uống, người huấn luyện voi giỏi bèn
nghĩ rằng, ‘Bây giờ con voi rừng này có thể sống được rồi. Vì
sao vậy? Vì con voi rừng to lớn này bắt đầu chịu ăn uống.’ Khi
voi rừng bắt đầu chịu ăn uống, nghe lời người huấn luyện,
người huấn luyện voi nói với nó bằng những lời dịu dàng khả
ái, bảo nó nằm xuống, đứng dậy, đi tới, đi lui, lấy, bỏ, co
lại, đuổi ra. Khi người luyện voi nói với voi rừng bằng những
lời dịu dàng khả ái, bảo nó nằm xuống, đứng dậy, đi tới, đi
lui, lấy bỏ, co lại duỗi ra, và voi rừng làm y theo lời dạy
của người huấn luyện voi như vậy. Này A-kì-xá-na, khi voi rừng
nghe theo lời dạy của người huấn luyện voi, bấy giờ người huấn
luyện voi mới buộc hai chân trước, hai chân sau, hai bàn thối,
hai sườn hông, đùi, xương sống, đầu, trán, tai, ngà, và buộc
cả vòi nó lại, rồi sai người cầm móc câu cỡi lên đầu nó; khiến
một số đông người cầm dao, thuẫn, sảo, mâu, kích, búa, việt,
đứng phía trước, còn người huấn luyện voi thì tay cầm một cây
mâu nhọn đứng ngay trước voi mà nói rằng, ‘Bây giờ ta trị
ngươi, khiến ngươi không di động. Ta trị ngươi chớ có di
động.’ Khi voi rừng nghe người huấn luyện voi sửa trị không di
động, nó không giở chân trước, cũng không động đậy chân sau,
hai bàn thối, hai sườn hông, đùi, xương sống, đầu, trán, tai
ngà và vòi, tất cả thảy đều không động đậy. Voi rừng nghe theo
người huấn luyện voi đứng im bất động như vậy.
“Này A-kì-xá-na, khi voi rừng nghe theo người
huấn luyện voi mà không di động, lúc bấy giờ nó nhẫn chịu
những dao, sảo, mâu, kích, búa, việt, hô hoán to tiếng, hoặc
gào thét, hoặc thổi tù và, đánh trống, động chuông, nó có thể
nhẫn chịu tất cả. Khi voi rừng đã có thể kham nhẫn, bấy giờ nó
là con voi điều ngự, khéo điều ngự, thượng điều ngự, tối
thượng điều ngự, thượng nhanh nhẹn, tối thượng nhanh nhẹn, có
thể vào cho vua cỡi, ăn lẫm của vua, được gọi là vương tượng.
“Cũng vậy, A-kì-xá-na, nếu khi Như Lai xuất
hiện thế gian, là Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp
Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật, Chúng Hựu, vị ấy đối với thế
gian này, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người
đến trời, mà tự tri, tự giác, tự chứng ngộ, thành tựu an trụ.
Vị ấy thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu, phần
cuối cũøng vi diệu, có nghĩa có văn, đầy đủ thanh tịnh, hiển
hiện phạm hạnh; pháp được vị ấy nói, khi con nhà cư sĩ nghe
được, và sau khi nghe thì có tín tâm nơi pháp được Như Lai
nói. Người này sau khi có tín tâm, bèn cạo bỏ râu tóc, khoác
áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, để
học đạo. Này A-kì-xá-na, đó là lúc Thánh đệ tử ra nơi khoảng
đất trống, cũng như vương tượng dẫn voi rừng ra. Và cũng như
voi rừng còn tham luyến ái dục, ái dục nơi đời sống trong rừng
núi. Này A-kì-xá-na, cũng vậy, chư Thiên và Nhân loại tham
luyến dục lạc ở nơi ngũ dục, sắc, thanh, hương, vị, xúc, Như
Lai bắt đầu điều ngự Tỳ-kheo ấy rằng, ‘Ngươi hãy thủ hộ thân
và mạng thanh tịnh. Hãy thủ hộ miệng ý và mạng thanh tịnh.
“Khi Thánh đệ tử thủ hộ thân và mạng thanh
tịnh, thủ hộ miệng, ý và mạng thanh tịnh. Như Lai lại điều
phục Tỳ-kheo ấy rằng, ‘Ngươi hãy quán nội thân như thân, cho
đến quán thọ, tâm, pháp như pháp.’ Khi Thánh đệ tử quán nội
thân như thân, quán thọ, tâm, pháp như pháp, thì bốn niệm xứ
này ở trong tâm của Hiền Thánh đệ tử, buộc trói tâm của vị ấy
lại, chế ngự tâm ý vui say theo thế tục, trừ khử tâm niệm ham
muốn thế tục, dứt trừ sự mệt nhọc thế tục, khiến cho vui với
Chánh pháp, tu tập Thánh giới. Này A-kì-xá-na, cũng như người
huấn luyện voi, sau khi vâng mạng vua Sát-lợi Đảnh Sanh rồi,
vác cây gậy rất lớn rồi trên vai phải đi đến chỗ voi rừng, cắm
cây xuống đất, cột cổ voi rừng lại, chế ngự tâm ý vui thích
núi rừng, trừ khử tâm niệm ham muốn núi rừng, dứt bỏ sự mệt
nhọc núi rừng, khiến vui với thôn ấp, quen yêu thích nhân
gian; cũng vậy, này A-kì-xá-na,, bốn niệm xứ này ở trong tâm
của Hiền Thánh đệ tử, buộc trói tâm người ấy lại, chế ngự tâm
ta vui say thế tục, dứt bỏ sự mệt nhọc thế tục, khiến vui với
Chánh pháp, tu tập Thánh giới.
“Khi Thánh đệ tử quán nội thân như thân, cho
đến quán, thọ, tâm, pháp như pháp, Như Lai điều phục Tỳ-kheo
ấy rằng, ‘Ngươi hãy quán nội thân như thân, đừng suy niệm
những tư niệm tương ưng với dục, cho đến quán thọ, tâm, pháp
như pháp, không suy niệm những tư niệm tương ưng với phi
pháp.’ Và đệ tử vâng theo lời dạy của Như Lai vậy. Này
A-kì-xá-na, cũng như voi rừng nghe theo người huấn luyện voi,
bằng những lời dịu dàng khả ái, bảo nằm xuống, đứng dậy, đi
tới, đi lui, lấy, bỏ, co lại, duỗi ra. Voi rừng tuân theo lời
dạy của người huấn luyện voi như vậy. Cũng vậy, này
A-kì-xá-na, khi Thánh đệ tử quán nội thân như thân, không suy
niệm tư niệm tương ưng với dục, cho đến quán thọ, tâm, pháp
như pháp, không suy niệm tư niệm tương ưng với phi pháp. Thánh
đệ tử vâng theo lời dạy của Như Lai như vậy.
“Khi Thánh đệ tử vâng theo lời dạy của Như Lai
như vậy, Như Lai lại điều phục Tỳ-kheo ấy rằng, ‘Ngươi hãy ly
dục, ly pháp ác bất thiện, cho đến chứng đắc đệ Tứ thiền thành
tựu và an trụ. Như vậy Thánh đệ tử vâng theo lời dạy của Như
Lai, an trụ không di động.’ Này A-kì-xá-na, cũng như voi rừng
vâng theo sự sửa trị của người huấn luyện voi không di động,
không giở hai chân trước, hai chân sau, hai bàn thối, hai sườn
hông, đùi xương sống, đầu, tai, ngà và vòi, tất cả đều không
di động. Voi rừng nghe theo người huấn luyện voi đứng im không
di động như vậy. Cũng vậy, này A-kì-xá-na, khi Thánh đệ tử ly
dục, ly pháp ác bất thiện, cho đến chứng đắc đệ Tứ thiền,
thành tựu an trụ, như vậy Thánh đệ tử vâng theo lời dạy của
Như Lai mà an trụ không di động. Khi Thánh đệ tử vâng theo lời
dạy của Như Lai mà an trụ không di động, vị ấy lúc bấy giờ có
thể kham nhẫn đói, khát, nóng lạnh, muỗi, chí, rận, gió, nắng
bức bách, tiếng dữ, gậy đánh cũng đều có thể kham nhẫn. Thân
gặp những bệnh tật rất đau đớn, gần như tuyệt mạng, và những
điều không khả lạc, tất cả đều có thể kham nhẫn. Này
A-kì-xá-na, cũng như voi rừng nghe theo người huấn luyện voi
đứng im không di động, nó lúc bấy giờ nhẫn chịu được dao,
thuẫn, sảo, mâu, kích, búa, việt, hô hoán to tiếng, hoặc gào
thét, thổi tù và, đánh trống, động chuông thảy đều có thể kham
nhẫn. Cũng vậy, này A-kì-xá-na, khi Thánh đệ tử vâng theo lời
dạy của Như Lai mà an trụ không di động, vị ấy lúc bấy giờ có
thể kham nhẫn đói, khát, lạnh, nóng, muỗi, chí, rận, gió,
nắng, bức bách, tiếng dữ, gậy đánh, cũng có thể kham nhẫn,
thân gặp những bệnh tật rất đau đớn, gần như tuyệt mạng, và
những điều không khả lạc, thảy đều có thể kham nhẫn. Này
A-kì-xá-na, khi Thánh đệ tử vâng theo lời dạy của Như Lai mà
có thể kham nhẫn, vị ấy lúc bấy giờ là vị điều ngự, thiện điều
ngự, được thượng điều ngự, tối thượng điều ngự, được thượng
tịch tịnh, tối thượng tịch tịnh. Vị ấy trừ bỏ các tà vạy, sợ
hãi, ngu si và siểm nịnh, thanh tịnh lắng đọng trần lao, không
cấu nhiễm không ô uế, xứng đáng tán thán, đáng thỉnh, đáng
kính, đáng trọng, thật sự xứng đáng được cúng dường, là ruộng
phước cho tất cả chư Thiên và Nhân loại. Này A-kì-xá-na, cũng
như voi rừng đã có thể kham nhẫn. Lúc bấy giờ nó là voi điều
ngự, thiện điều ngự, thượng điều ngự, tối thượng điều ngự,
thượng nhanh nhẹn, tối thượng nhanh nhẹn, có thể xung vào cho
vua cỡi, được ăn lẫm của vua, được gọi là vương tượng. Cũng
vậy, này A-kì-xá-na, khi Thánh đệ tử vâng theo Như Lai mà có
thể kham nhẫn, vị ấy lúc bấy giờ được gọi là điều ngự, thiện
điều ngự, được thượng điều ngự, tối thượng điều ngự, thượng
tịch tịnh, tối thượng tịch tịnh, trừ bỏ các tà vạy, sợ hãi,
ngu si và siểm nịnh, thanh tịnh lắng đọng các trần lao, không
cấu nhiễm, không ô uế, xứng đáng tán thán, đáng thỉnh, đáng
kính, đáng trọng, thật sự xứng đáng cúng dường, là ruộng phước
cho hết thảy chư Thiên và Nhân loại.
“Này A-kì-xá-na, con voi rừng còn nhỏ, không
được điều ngự, mà chết, thì đó gọi là cái chết không được điều
ngự. Con voi rừng trung niên, không được điều ngự mà chết, thì
gọi là cái chết không được điều ngự. Này A-kì-xá-na, Thánh đệ
tử niên thiếu không được điều mà mạng chung, thì đó gọi là
mạng chung không được điều ngự. Thánh đệ tử trung niên không
được điều ngự mà mạng chung thì đó gọi là mạng chung không
được điều ngự.
“Này A-kì-xá-na, con voi rừng còn nhỏ được
thiện điều ngự mà chết thì đó gọi là cái chết thiện điều ngự.
Con voi rừng trung niên, được thiện điều ngự mà chết, thì đó
gọi là cái chết được thiện điều ngự. Này A-kì-xá-na, Thánh đệ
tử niên thiếu được thiện điều ngự mà mạng chung, đó gọi là
mạng chung thiện điều ngự. Thánh đệ tử trung niêm được thiện
điều ngự mà mạng chung, thì đó gọi là mạng chung thiện điều
ngự.”
Phật thuyết như vậy, Sa-di A-di-na-hòa-đề và
các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương
đương Pāli, M.125. Dantabhūmi-sutta.
-
[02]Vương
đồng tử Kì-bà-tiên-na. Pāli: Jayasena-Rājakūmāra.
-
[04]
A-kì-xá-na; Pāli: Aggivassana: có thể tên của một bộ tộc chớ
không phải biệt danh của Tôn giả.
-
[05] Bản
Hán: địa, địa vị hay tình trạng; ý nghĩa sẽ thấy sau.
-
[06] Điều
ngự; Pāli: damma, được huấn luyện. Bản Pāli chỉ kể có ba:
hatthidamma, huấn luyện voi, assadamma, huấn luyện ngựa,
godamma, huấn luyện bò.
-
[07] Trong
bản Pāli, có hai con vật cần huấn luyện nhưng chưa được huấn
luyện, và hai con vật cần huấn luyện đã được huấn luyện.
-
[08] Đoạn
này văn Hán hơi tối. Tham chiếu Pāli: api nu te adantāva
dantakāraa gaccheyyu, adantāva dantabhūmi sampāpueyyu,
seyyathāpi te dve... sudantā suvinītā’ti? “Những con chưa
được huấn luyện này có thể làm công việc của con vật đã được
huấn luyện, có thể đạt đến địa vị của con vật đã được huấn
luyện, như hai con... đã được huấn luyện kỹ, đã được khéo
khuất phục kia?”
-
[09] Bản Hán
hình như hiểu rằng có hai trường hợp có khả năng huấn luyện,
và hai trường hợp tuyệt đối không khả năng.
-
[10] Bản
Hán: địa, địa vị hay tình trạng; ý nghĩa sẽ thấy sau.
-
[11] Xem
cht.10 trên.