-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng
Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Nay Ta sẽ nói cho các thầy nghe về pháp ngu si
và pháp trí tuệ. Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, hãy suy nghĩ
kỹ.
Các Tỳ-kheo vâng lời lắng nghe.
Đức Phật dạy:
Thế nào là pháp ngu si? Người ngu si có ba: Sự
tướng, tiêu thức ngu si và ấn tượng ngu si. Tức là người thành
tựu sự ngu si thì nói là ngu si.
Những gì là ba? Người ngu si suy tư bằng tư
niệm ác, nói bằng lời nói ác, và làm việc làm ác. Do đó, người
ngu si được gọi là ngu si. Nếu người ngu si không suy nghĩ ý
nghĩ ác, không nói lời nói ác, và không làm việc ác, như vậy
thì làm sao người ngu si được nói là ngu si? Vì người ngu si
suy nghĩ ý nghĩ ác, nói lời nói ác và làm việc làm ác, cho nên
người ngu si được nói là ngu si.
Người ngu si kia ngay trong đời hiện tại, thân
tâm phải cảm thọ ba điều sầu khổ. Thế nào là thân tâm người
ngu si phải cảm thọ ba điều sầu khổ? Người ngu si có những
hành vi nào, hoặc ngồi nơi tụ hội, hoặc nơi đường cái, đường
hẻm, hoặc nơi chợ quán, hoặc đầu ngã tư đường, nói những việc
thích hợp với người ngu si. Người ngu si mà làm việc sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối cho đến tà kiến, và thành tựu vô
lượng pháp ác bất thiện khác, và đã thành tựu vô lượng pháp ác
bất thiện khác rồi, khi người khác thấy được bằng nói sự ác
của nó, kẻ ngu si kia nghe rồi tự nghĩ: ”Nếu ai thành tựu vô
lượng pháp ác bất thiện, khi người ta thấy được bằng nói sự ác
của nó. Ta cũng có vô lượng pháp ác bất thiện. Nếu có kẻ khác
biết được, cũng nói điều ác của ta.” Đây là điều sầu khổ thứ
nhất mà thân tâm của người ngu si lãnh thọ ngay trong đời hiện
tại.
Lại nữa, người ngu si thấy người của vua bắt
trói kẻ có tội, trị bằng các thứ hình phạt đau đớn như: chặt
tay, chặt chân, chặt cả tay chân, xẻo tai, xẻo mũi, xẻo cả tai
mũi, hoặc cắt từng miếng thịt, nhổ tóc bứt râu, hoặc nhổ cả
râu tóc, hoặc nhốt trong cũi, trùm trong áo rồi đốt, hoặc lấy
cát lấp, quấn cỏ rồi châm lửa, hoặc bỏ vào miệng heo sắt, hoặc
bỏ vào bụng lừa sắt, hoặc bỏ vào miệng cọp sắt rồi đốt, hoặc
bỏ trong chảo đồng, hoặc đặt trong chảo sắt rồi nấu, hoặc chặt
ra từng khúc, hoặc lấy mũi nhọn đâm, hoặc dùng móc câu móc,
hoặc đặt trên giường sắt, lấy dầu sôi nhểu xuống, hoặc ngồi
trên cối sắt rồi dùng chày sắt giã, hoặc cho độc long mổ, hoặc
lấy roi đánh, hoặc dùng gậy phang, hoặc lấy hèo đập, hoặc xỏ
lưỡi bêu đầu, hoặc đem chém bêu đầu. Người ngu si kia thấy rồi
tự suy nghĩ: “Nếu ai thành tựu vô lượng pháp ác bất thiện nếu
biết được ta cũng có vô lượng pháp ác bất thiện, nếu vua biết
được, ta cũng bị khảo trị như vậy.” Đây là điều sầu khổ thứ
hai mà thân của kẻ ngu si lãnh thọ ngay trong đời hiện tại.
Lại nữa, người ngu si kia thân hành ác hạnh,
khẩu, ý hành ác hạnh, khi nó bệnh tật mà chịu đau đớn, hoặc
ngồi nằm trên giường, hoặc ngồi nằm trên ván, hoặc ngồi nằm
trên đất, thân tâm cực kỳ đau khổ, nhẫn đến mạng sống gần dứt.
Bấy giờ những thân ác hạnh, khẩu, ý ác hạnh của nó treo ngược
từ trên cao, như lúc xế chiều mặt trời lặng xuống núi cao, dốc
ngược trên mặt đất. Cũng vậy, những thân ác hạnh, khẩu và ý ác
hạnh của nó bây giờ đang treo ngược từ trên cao. Người kia tự
nghĩ: ”Đó là những thân ác hạnh, khẩu, ý ác hạnh của ta đang
đổ ngược từ trên cao. Ta xưa kia làm ác nhiều, không tạo
phước, nếu có nơi nào cho những người làm ác, hung bạo, làm
việc phi lý, không làm lành, không tạo phước, không tìm nơi
quy mạng, nương tựa cho sự sợ hãi, ta đến chỗ ác đó.” Rồi do
đó mà sanh hối hận, mà chết không nhẹ nhàng, mạng chung chẳng
an lành. Đây là điều sầu khổ thứ ba mà thân tâm của người ngu
si lãnh thọ ngay trong đời hiện tại.
Lại nữa, người ngu si kia, thân hành ác hạnh,
khẩu hành ác hạnh, ý hành ác hạnh. Và sau khi thân hành ác
hạnh, khẩu, ý hành ác hạnh, do nhân duyên đó, thân hoại mạng
chung chắc đến đường ác, sanh vào địa ngục. Đã sanh vào đó, nó
lãnh thọ khổ báo, hoàn toàn không khả ái, không khả lạc, không
khả ý, khả niệm, thì cái đó là địa ngục. Vì sao? Vì trong địa
ngục kia hoàn toàn không khả ái, không khả lạc, không khả ý
khả niệm vậy.
Bấy giờ có một vị Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy,
trịch vai áo bên phải, chắp tay hướng về Phật mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, sự khổ trong địa ngục như thế
nào?”
Thế Tôn đáp:
“Này Tỳ-kheo, địa ngục không thể nói hết được.
Nghĩa là nói về sự khổ trong địa ngục. Này Tỳ-kheo, vì địa
ngục chỉ có sự khổ mà thôi.”
Tỳ-kheo lại hỏi:
“Đức Thế Tôn có thể dùng ví dụ để làm rõ nghĩa
ấy chăng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Cũng có thể dùng ví dụ để làm rõ nghĩa về sự
khổ ấy. Này Tỳ-kheo, ví như người của nhà vua bắt kẻ giặc đem
về chỗ vua Sát-lợi Đảnh Sanh tâu: ‘Tâu Thiên vương, kẻ giặc
này có tội xin Thiên vương trị nó.’ Vua Sát-lợi Đảnh Sanh bảo:
‘Các ngươi hãy đem nó đi trị tội. Buổi sáng dùng một trăm cây
giáo nhọn mà đâm’. Người của vua lãnh lệnh bèn đem đi trị tội.
Buổi sáng dùng một trăm cây giáo nhọn mà đâm. Nhưng người kia
vẫn còn sống. Vua Sát-lợi Đảnh Sanh hỏi: ‘Người kia thế nào?’
Người của vua đáp: ‘Tâu Thiên vương, người kia còn sống.’ Vua
Sát-lợi Đảnh Sanh lại bảo: ‘Buổi trưa các ngươi cũng dùng một
trăm cây giáo nhọn mà đâm.’ Người của vua thừa lệnh, buổi giữa
trưa dùng một trăm cây giáo nhọn mà đâm. Người kia vẫn còn
sống. Vua Sát-lợi Đảnh Sanh lại hỏi: ‘Người kia thế nào?’.
Người của vua đáp: ‘Tâu Thiên vương, kẻ kia còn sống’. Vua
Sát-lợi Đảnh Sanh lại bảo: ‘Buổi chiều các ngươi cũng hãy dùng
một trăm cây giáo nhọn mà đâm.’ Người của vua thừa lệnh, buổi
chiều lại dùng một trăm cây đáo nhọn mà đâm. Kẻ kia vẫn còn
sống, nhưng thân thể đã bị đâm thủng, rách nát hoàn toàn,
không còn một chỗ nguyên vẹn, dầu nhỏ như lỗ đồng tiền. Vua
Sát-lợi Đảnh Sanh lại hỏi: ‘Người kia thế nào?’ Người của vua
đáp: ‘Tâu Thiên vương, người kia còn sống, nhưng thân thể bị
đâm thủng, rách nát hoàn toàn không còn một chỗ nguyên vẹn, dù
nhỏ như lỗ đồng tiền.’
“Này Tỳ-kheo, ý ông nghĩ sao? Nếu người kia một
ngày bị ba trăm mũi giáo nhọn đâm, nó nhân đó, thân tâm có
chịu ưu phiền, sầu khổ cực kỳ không?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, bị một mũi giáo nhọn đâm còn
chịu cực khổ, huống nữa một ngày chịu ba trăm mũi giáo nhọn
đâm. Thân tâm người kia há không chịu sự cực kỳ sầu khổ, ưu
não?”
Bấy giờ Thế Tôn tay cầm viên đá nhỏ như hạt đậu
hỏi Tỳ-kheo:
“Ngươi thấy tay Ta cầm viên đá nhỏ như hạt đậu
chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, con thấy.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Tỳ-kheo, ý ông nghĩ sao? Viên đá Ta cầm
nhỏ bằng hạt đậu này sánh với núi Tuyết sơn vương, cái nào lớn
hơn?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, viên đá cầm trong tay nhỏ bằng
hạt đậu, đem sánh với Tuyết sơn vương, thì nhỏ thua gấp trăm,
gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn vạn lần, trọn chẳng sánh kịp,
không thể toán, không thể tính, không thể thí dụ, không thể so
được. Chỉ nói là Tuyết sơn vương rất lớn, cực lớn.”
Thế Tôn bảo:
“Này Tỳ-kheo, nếu viên đá Ta cầm trong tay nhỏ
bằng hạt đậu, đem sánh với Tuyết sơn vương nhỏ thua gấp trăm
lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn vạn lần, trọn không thể sánh
kịp, không thể toán, không thể tính, không thể ví dụ, không
thể so được. Chỉ nói là núi Tuyết sơn vương rất lớn. Cũng vậy,
Tỳ-kheo, nếu người này một ngày bị ba trăm mũi giáo nhọn đâm,
do nhân duyên đó, thân tâm nó chịu ưu não sầu khổ cực trọng,
mà đem so với sự khổ trong địa ngục không bằng gấp trăm lần,
gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn vạn lần, trọn không thể sánh kịp,
không thể toán, không thể tính, không thể thí dụ không thể so
được, chỉ nói là trong địa ngục cực kỳ khổ sở mà thôi. Này
Tỳ-kheo, thế nào là địa ngục khổ? Chúng sanh sanh trong địa
ngục, đã sanh vào đó rồi, ngục tốt nắm lấy, tay cầm búa sắt,
trui lửa đỏ rực mà móc thân thể. Chỗ đó hình phạt tội nhân,
hoặc xây tám góc, hoặc xây sáu góc, hoặc xây vuông vức, hoặc
làm hình tròn, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc tốt, hoặc xấu. Như
vậy, kẻ tội nhân bị tra khảo thống khổ bức ngặt, trải qua
nhiều năm cho đến trăm nghìn năm cảm thọ vô lượng khổ, cực kỳ
thống khổ, nhưng không thể chết được trừ khi tội ác bất thiện
đã hết. Như vậy gọi là khổ địa ngục.
“Này Tỳ-kheo, thế nào là khổ địa ngục? Chúng
sanh sanh trong địa ngục, đã sanh vào đó rồi, ngục tốt nắm
lấy, tay cầm búa sắt trui lửa đỏ rực mà đốt thân thể. Chỗ để
hình phạt hoặc xây tám góc, hoặc xây sáu góc, hoặc vuông vức,
hoặc hình tròn, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc tốt, hoặc xấu. Như
thế, tội nhân bị khảo trị thống khổ bức ngặt, trải qua nhiều
năm cho đến trăm nghìn năm, cảm thọ vô lượng khổ, cực kỳ thống
khổ, nhưng không thể chết được, trừ khi tội ác bất thiện đã
dứt. Như vậy gọi là khổ địa ngục.
“Này Tỳ-kheo, thế nào là khổ địa ngục? Chúng
sanh sanh trong địa ngục, khi sanh vào đó rồi, ngục tốt nắm
lấy, rồi lấy cọc sắt đốt cháy đỏ rực, cưỡng ép ngồi lên, rồi
lấy kềm sắt kẹp mở miệng tội nhân, lấy hòn sắt lửa cháy hừng
hực, bỏ vào miệng kẻ tội, làm cháy môi cháy lưỡi, cháy răng,
cháy cổ, cháy tim, cháy bao tử, rồi chạy xuống dưới thân mà
ra. Như vậy tội nhân bị khảo trị thống khổ bức ngặt trải qua
nhiều năm, cho đến trăm ngàn năm, cảm thọ vô lượng khổ, cực kỳ
thống khổ nhưng không thể chết được, trừ phi tội ác bất thiện
đã dứt. Như vậy gọi là khổ địa ngục.
“Này Tỳ-kheo, thế nào là khổ địa ngục? chúng
sanh sanh vào địa ngục, khi đã sanh vào đó rồi, ngục tốt nắm
lấy, rồi lấy cọc sắt trui cháy đỏ rực, cưỡng ép ngồi lên, bèn
lấy kềm sắt, kẹp mở miệng tội nhân, rồi lấy nước đồng sôi rót
vào miệng tội nhân làm cháy môi, cháy lưỡi, cháy cổ, cháy
răng, cháy tim, cháy bao tử, rồi chảy xuống dưới thân ra
ngoài. Như vậy tội nhân bị khảo trị thống khổ bức ngặt trải
qua nhiều năm, cho đến trăm ngàn năm, cảm thọ vô lượng khổ,
cực kỳ thống khổ, nhưng không thể chết được, trừ phi tội ác
bất thiện đã dứt. Như vậy gọi là khổ địa ngục.
“Này Tỳ-kheo, thế nào là khổ địa ngục? Chúng
sanh sanh vào địa ngục, khi đã sanh vào đó rồi, ngục tốt nắm
lấy, rồi với đất bằng sắt đốt lửa đỏ rực, khiến nằm ngửa lên,
trói năm chi thể lại, lấy đinh sắt đóng xuống hai tay và hai
chân, dùng một cái đinh riêng đóng ở bụng tội nhân. Như vậy
tội nhân bị khảo trị đau đớn đến cùng cực, trải qua nhiều năm
cho đến trăm ngàn năm như vậy, cảm thọ vô lượng khổ, cực kỳ
đau khổ, nhưng tội nhân không thể chết được trừ phi tội ác và
nghiệp bất thiện của họ chấm dứt. Như vậy gọi là khổ địa ngục.
“Này Tỳ-kheo, thế nào là khổ địa ngục? Chúng
sanh sanh vào địa ngục khi đã sanh vào đó rồi, ngục tốt nắm
lấy, với mặt đất bằng sắt, đốt cháy đỏ rực, bắt tội nhân nằm
sát đất, kéo lưỡi ra, dùng trăm đinh căng thẳng, không nhăn,
không dùn. Cũng như vậy, chúng sanh sanh vào địa ngục, khi đã
sanh vào đó rồi, bị ngục tốt nắm lấy, với mặt đất bằng sắt đốt
cháy đỏ rực, khiến tội nhân nằm xuống đất, từ miệng kéo lưỡi
ra, dùng trăm đinh đóng, căng thẳng không nhăn không dùn. Như
vậy, kẻ kia bị khảo trị đau khổ đến cùng cực, trải qua nhiều
năm cho đến trăm nghìn năm như vậy, cảm thọ vô lượng khổ,
những khổ cực trọng nhưng họ không thể chết được trừ phi tội
ác và bất thiện của họ tiêu diệt. Như thế gọi là khổ địa ngục.
“Này Tỳ-kheo, thế nào gọi là khổ địa ngục?
Chúng sanh sanh vào địa ngục, khi đã sanh vào đó rồi, bị ngục
tốt nắm lấy, lột da từ đầu đến chân, rồi lột ngược từ chân lên
đầu, dùng xe sắt đốt lửa đỏ rực, buộc tội nhân vào, ở trên mặt
đất bằng sắt, châm lửa cháy khắp, rồi bắt tội nhân kéo qua kéo
lại trên đó. Như vậy kẻ kia bị tra khảo đau đớn đến cùng cực,
trải qua nhiều năm cho đến trăm ngàn năm như vậy, cảm thọ vô
lượng khổ, những khổ cực trọng, nhưng họ không thể chết được,
trừ phi tội ác và bất thiện tiêu hết. Như vậy gọi là khổ địa
ngục.
“Này Tỳ-kheo, thế nào là khổ địa ngục? Chúng
sanh sanh vào địa ngục, khi đã sanh vào đó rồi, ngục tốt nắm
lấy, với lửa đốt cháy hừng hực, rải khắp trên đất, lại bảo tội
nhân lấy tay bốc lửa vải lên thân mình. Như vậy kẻ kia bị khảo
trị đau đớn đến cùng cực, trải qua nhiều năm, cho đến trăm
ngàn năm như vậy, cảm thọ vô lượng khổ, những thống khổ cực
trọng, nhưng họ không thể chết được, trừ phi tội ác bất thiện
tiêu hết. Như vậy gọi là khổ địa ngục.
“Này Tỳ-kheo, thế nào là khổ địa ngục? Chúng
sanh sanh vào địa ngục, khi đã sanh vào đó rồi, ngục tốt nắm
lấy, bằng cái chảo lớn, đốt lửa cháy đỏ, xách ngược thân tội
nhân, chân lên trời đầu xuống đất rồi quăng vào trong chảo.
Tội nhân ở trong chảo sôi sùng sục, thân nổi lên chìm xuống,
hoặc trôi dạt bốn bên, tự thân chảy ra bọt trở lại nấu lấy
thân, cũng như các thứ đậu lớn, đậu nhỏ, đậu uẩn, đậu đắng,
hạt cải, bỏ chung trong chảo đó đổ đầy nước, chụm lửa cháy dữ,
các hạt đậu trong chảo hoặc nổi lên chìm xuống, hoặc trôi dạt
bốn bên, đậu tự ra bọt rồi lại nấu lấy. Cũng vậy, chúng sanh
sanh vào địa ngục, khi đã sanh vào đó rồi, ngục tốt nắm lấy,
dùng chảo bằng sắt lớn, đốt lửa cháy đỏ, dựng ngược thân tội
nhân, chân quay lên trên, đầu quay xuống đất rồi ném vào trong
chảo có nước đang sôi sùng sục, thân nổi lên chìm xuống, hoặc
trôi giạt bốn bên, từ thân sanh ra bọt trở lại nấu lấy thân.
Kẻ kia như vậy bị khảo trị thống khổ đau đớn cùng tột, trải
qua nhiều năm cho đến ngàn năm, cảm thọ vô lượng khổ, những
khổ cực trọng. Nhưng tội nhân không thể chết được trừ phi tội
ác bất thiện của họ tiêu trừ hết. Như vậy gọi là khổ địa ngục.
“Này các Tỳ-kheo, thế nào là khổ địa ngục?
Trong địa ngục kia có ngục tên là Lục xúc. Nếu chúng sanh sanh
vào trong đó, sau khi đã sanh vào, hoặc sắp được thấy bởi mắt
không khả hỷ, không phải khả hỷ khả ý. Ý không nhuần lạc,
không phải nhuần lạc, ý không thiện lạc, không phải thiện lạc.
Hoặc tiếng được nghe bởi tai, được ngửi bởi mũi, vị được nếm
bởi lưỡi, xúc chạm nơi thân và pháp được biết bởi ý, không khả
hỷ, không khả ý, không phải khả hỷ khả ý, ý không nhuần lạc,
không phải nhuần lạc, ý không thiện lạc, không phải thiện lạc.
Như vậy gọi là khổ địa ngục.
“Này các Tỳ-kheo! Ta đã dùng vô lượng phương
tiện nói cho các ngươi về địa ngục, về sự việc ở địa ngục,
song sự khổ địa ngục không thể nói hết được. Chỉ nói là địa
ngục duy trì chỉ có khổ mà thôi.
“Này các Tỳ-kheo! Có lúc người ngu si kia ra
khỏi địa ngục, sanh làm súc sanh, thì súc sanh đó cũng rất
khổ.
“Này các Tỳ-kheo, thế nào là súc sanh khổ? Nếu
chúng sanh sanh vào loài súc sanh, tức loài sống trong tăm
tối, lớn lên trong tăm tối và chết đi trong tăm tối. Nó là
loài gì? Là loài trùng sống trong đất. Người ngu si ấy vì lúc
xưa tham đắm thực vị. Nó hành động với thân ác hạnh, khẩu và ý
ác hạnh. Sau khi hành động với thân ác hành, khẩu và ý ác hạnh
rồi. Do nhân duyên đó, đến lúc thân hoại mạng chung, sanh vào
loài súc sanh, tức là loài sống trong tối tăm, lớn lên trong
tối tăm và chết đi trong tối tăm. Như vậy gọi là khổ súc sanh.
“Này các Tỳ-kheo, thế nào là súc sanh khổ? Nếu
chúng sanh sanh trong loài súc sanh, tức sống trong thân, lớn
lên trong thân và chết trong thân. Nó là loài gì? Là loài vi
trùng ghẻ chóc. Người ngu si ấy vì lúc xưa tham đắm thực vị,
nó hành động với thân ác hạnh, khẩu và ý ác hạnh. Nó sau khi
hành động với thân ác hạnh, khẩu và ý ác hạnh rồi, do nhân
duyên đó, khi thân hoại mạng chung sanh vào loài súc sanh, tức
nó sống trong thân, lớn lên trong thân, và rồi chết trong
thân. Như vậy gọi là khổ súc sanh.
“Này các Tỳ-kheo, thế nào là súc sanh khổ? Nếu
chúng sanh sanh trong loài súc sanh mà sanh ra trong nước, lớn
lên trong nước và chết đi trong nước. Nó là loài gì? Đó là
loài cá kình, rùa, cá sấu, bà lưu ly đẻ trứng, già la. Người
ngu si ấy vì lúc xưa tham đắm thực vị, nó hành động với thân
ác hạnh, khẩu và ý ác hạnh. Nó sau khi hành động với thân ác
hạnh, khẩu và ý ác hạnh rồi, do nhân duyên đó, khi thân hoại
mạng chung, sanh trong loài súc sanh tức sống trong nước lớn
lên trong nước và rồi chết đi trong nước. Như vậy gọi là súc
sanh khổ.
“Này các Tỳ-kheo, thế nào là súc sanh khổ? Nếu
chúng sanh sanh trong súc sanh, loài có răng để cắn, sống ăn
cỏ, cây lá. Chúng là loài gì? Đó là voi, lạc đà, bò, nai, lừa,
trâu và chó. Người ngu si ấy vì lúc xưa tham đắm thực vị, nó
hành động với thân ác hạnh, khẩu và ý ác hạnh. Đó sau khi đã
hành động với thân ác hạnh, khẩu và ý ác hạnh do nhân duyên
đó, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào loài súc sanh loài
có răng để cắn, sống ăn cỏ cây lá. Như vậy gọi là súc sanh
khổ.
“Này các Tỳ-kheo, thế nào là súc sanh khổ? Nếu
chúng sanh sanh vào trong súc sanh, là loài súc sanh khi nghe
mùi đại tiểu tiện của người ta, liền chạy đến chỗ đó, ăn loại
đồ ăn đó. Cũng như trai, gái nghe được mùi ẩm thực liền chạy
đến và nói rằng: ‘Đây là đồ ăn, đây là đồ ăn.’ Cũng vậy, này
các Tỳ-kheo, nếu chúng sanh sanh trong súc sanh, tức là loài
súc sanh khi nghe mùi người ta đại tiểu tiện ra, liền chạy đến
nơi đó, ăn loại đồ ăn đó. Chúng là những loại gì? Đó là gà,
heo, chó, chó sói, quạ, câu-lâu-la, câu-lăng-già. Người ngu si
ấy, vì lúc xưa tham trước thực vị. Nó hành động với thân ác
hạnh, khẩu và ý ác hạnh, do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng
chung, sanh trong súc sanh, tức là loài ăn phân ô uế. Như vậy
gọi là súc sanh khổ.
“Này các Tỳ-kheo, Ta đã dùng vô lượng phương
tiện để nói cho các ngươi về súc sanh, nói sự việc của súc
sanh. Song nỗi khổ của súc sanh không làm sao nói hết được.
Chỉ nói là súc sanh duy chỉ có khổ mà thôi.
“Này các Tỳ-kheo, nếu như người ngu si kia ra
khỏi đường súc sanh, trở lại sanh lên làm người là việc cực kỳ
khó khăn. Vì sao? Vì kẻ kia trong loài súc sanh không làm nhân
nghĩa, không theo phép tắc lễ nghi, không làm việc lành, súc
sanh lại ăn nuốt lẫn nhau. Con mạnh ăn con yếu, con lớn nuốt
con bé. Này Tỳ-kheo, như đây này tràn đầy những nước. Có một
con rùa đui, sống lâu vô lượng trăm ngàn năm. Trên mặt nước
kia có miếng ván nhỏ, chỉ có một lỗ duy nhất bị gió thổi trôi.
Này các Tỳ-kheo, các ông nghĩ sao? Con rùa đui kia, đầu nó có
thể chui vào cái lỗ duy nhất của miếng gỗ nhẹ nhỏ kia chăng?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, có thể chui được, nhưng thật
lâu, thật lâu và rất khó.
Thế Tôn bảo:
“Này các Tỳ-kheo, hoặc con rùa đui kia trải qua
một trăm năm, rồi nó từ phía Đông đến, ngóc đầu lên một lần.
Miếng ván nhỏ kia chỉ có một lỗ lại bị gió thổi từ phương Đông
dời qua phương Nam. Hoặc lúc con rùa đui qua một trăm năm từ
phương Nam đến, ngóc đầu lên một lần, thì miếng ván một lỗ
kia, lại bị gió thổi từ phương Nam dời đến phương Tây. Hoặc có
lúc con rùa đui đợi một trăm năm qua từ phương Tây đến, ngóc
đầu lên một lần, thì miếng ván có một lỗ kia, lại bị gió từ
phương Tây thổi dời đến phương Bắc. Hoặc lúc con rùa đui kia
từ phương Bắc đến, ngóc đầu lên một lần nữa, thì miếng ván có
một lỗ kia lại bị gió thổi từ phương Bắc dời tới các phương
khác. Này các Tỳ-kheo, ý ông nghĩ sao? Con rùa đui kia có chui
vào được lỗ ván ấy chăng?
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, con rùa cũng có thể chui vào
được lỗ ván ấy. Nhưng thật lâu, thật lâu và khó lắm.”
“Này Tỳ-kheo, cũng vậy, người ngu si kia, từ
súc sanh ra mà trở lại làm người thì cũng khó lắm. Vì sao? Kẻ
kia ở trong súc sanh, không làm việc nhân nghĩa, không theo
phép tắc lễ nghi, không làm việc tốt lành, loài súc sanh đó
lại ăn nuốt lẫn nhau, con mạnh ăn con yếu, con lớn nuốt con
nhỏ.
“Này các Tỳ-kheo, nếu người ngu si kia có khi
ra khỏi súc sanh, sanh lên làm người, hoặc sanh nhằm nhà thuộc
giai cấp hạ tiện, xấu xí, bần cùng, ăn uống thiếu thốn, kiếm
thức ăn rất khó. Họ là hạng người nào? Đó là nhà ngục tốt, nhà
làm thợ, nhà thủ công, nhà làm đồ gốm, và các nhà hạ tiện
khác, đại loại như vậy. Xấu xí, bần cùng, ăn uống thiếu thốn,
kiếm ăn rất khó. Họ sanh nhằm những nhà như vậy. Khi sanh vào
đó rồi, hoặc đui, hoặc què, hoặc khuỷu tay ngắn, hoặc gù, hoặc
chỉ dùng tay trái, da xấu, mặt dê, xấu xí đoản mạng, bị người
khác sai sử. Nó hành động với thân ác hạnh, khẩu và ý ác hạnh.
Nó sau khi hành động với thân ác hạnh, khẩu và ý ác hạnh, do
nhân duyên đó, sau khi thân hoại mạng chung trở lại chỗ ác
sanh vào địa ngục. Cũng như hai người cùng đánh bạc, một trong
hai người đó, canh bạc đầu nó mất tôi tớ, và mất cả vợ con.
Sau đó lại đến thân mình bị treo ngược trong nhà khói. Người
đó tự nghĩ: ‘Ta không ăn không uống, song canh bạc đầu ta mất
tôi tớ, mất cả vợ con. Canh bạc cuối, thân ta bị treo ngược
trong nhà khói.’ Này các Tỳ-kheo, canh bạc ấy thua rất ít, chỉ
mất tôi tớ, mất vợ con, và sau đó thân bị treo ngược trong nhà
khói. Này Tỳ-kheo, canh bạc này mới đáng kể ‘Đó là thân hành
động ác, khẩu và ý hành động ác.’ Sau khi hành động với thân
ác hạnh, khẩu và ý ác hạnh, do nhân duyên đó, khi thân hoại
mạng chung, trở lại chỗ ác, sanh trong địa ngục.
“Này các Tỳ-kheo, đối với việc làm này, thật
không thể vui, thật không thể thích, chẳng phải chỗ nghĩ đến.
“Này các Tỳ-kheo, được nói như vậy, há không
đầy đủ chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, thật sự như vậy, đã nói hết các
pháp ngu si kia.
Đức Thế Tôn bảo:
“Thế nào là pháp trí tuệ? Là người trí tuệ có
ba: sự tướng, tiêu thức và ấn tượng trí tuệ. Tức là người đã
thành tựu trí tuệ nên nói là trí tuệ.
“Những gì là ba? Người trí tuệ suy nghĩ với ý
nghĩ thiện, nói lời nói thiện và làm việc thiện. Vì là người
trí tuệ, nên được nói là trí tuệ vậy.
“Nếu kẻ trí chẳng nghĩ điều thiện, không nói là
thiện và không làm việc thiện, thì người trí làm sao biết được
họ là trí? Vì người có trí tuệ, nghĩ thì nghĩ thiện, nói thì
nói thiện và làm thì làm thiện nên người có trí nói là kẻ trí.
“Người có trí tuệ ngay trong đời hiện tại thân
tâm cảm thọ được ba điều hỷ lạc. Thế nào là người trí tuệ ngay
trong đời hiện tại thân tâm của họ cảm thọ ba điều hỷ lạc?
Người trí tuệ có những hành vi nào, hoặc ngồi nơi tụ lạc, hoặc
tại đường cái, đường hẻm, hoặc tại chợ quán, hoặc tại ngã tư
đường, nói những việc thích hợp với người trí. Kẻ có trí thì
từ bỏ sát sanh, từ bỏ việc lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ
bỏ nói dối, cho đến từ bỏ tà kiến mà được chánh kiến, thành
tựu vô lượng pháp thiện. Nếu đã thành tựu vô lượng pháp thiện,
khi người khác thấy họ, bèn khen ngợi, người trí tuệ kia, nghe
hoặc tự nghĩ: ‘Nếu ai thành tựu vô lượng pháp thiện, khi người
khác thấy bèn khen ngợi, thì ta đây cũng có vô lượng pháp
thiện. Nếu có kẻ nào thấy tất sẽ khen ngợi ta.’ Đây là điều hỷ
lạc thứ nhất mà người trí ngay trong đời hiện tại, thân tâm
cảm thọ được.
“Lại nữa, người trí tuệ kia thấy người của vua
dùng các thứ hình phạt để trị giặc cướp như chặt tay, chặt
chân, và chặt cả tay chân, xẻo tai, xẻo mũi, hoặc xẻo cả tai
mũi, hoặc cắt từng miếng thịt, hoặc nhổ tóc, bứt râu, hoặc bứt
cả râu tóc, hoặc bỏ vào cũi, trùm trong áo rồi đốt cháy, hoặc
lấy cát lấp, quấn cỏ rồi châm lửa, hoặc bỏ vào trong bụng lừa
sắt, hoặc ném vào trong miệng heo sắt, hoặc đôi vào miệng cọp
sắt rồi đốt, hoặc bỏ vào chảo đồng, hoặc đôi vào chảo sắt rồi
nấu, hoặc chặt ra từng khúc, hoặc dùng giáo nhọn đâm, hoặc lấy
móc câu móc, hoặc đặt trên giường sắt rồi lấy dầu sôi nhểu,
hoặc ngồi trên cối sắt dùng chày sắt giã, hoặc cho độc long
mổ, hoặc dùng roi quất, hoặc dùng gậy đánh, hoặc lấy hèo đập,
hoặc xỏ lưỡi bêu đầu, hoặc đâm chết bêu đầu. Người trí tuệ kia
thấy rồi bèn nghĩ: ‘Nếu ai thành tựu vô lượng pháp ác bất
thiện, vua biết được bắt và khảo trị như vậy. Ta không làm vô
lượng pháp ác bất thiện, nếu vua biết ta thì ta hoàn toàn
chẳng bị các loại khổ trị như vậy.’ Đây là điều hỷ lạc thứ hai
mà người trí ngay trong đời hiện tại, thân tâm cảm thọ được.
“Lại nữa, người trí kia hành động với thân diệu
hạnh, khẩu và ý diệu hạnh. Người đó gặp lúc bệnh khổ, hoặc nằm
ngồi trên giường, hoặc nằm ngồi trên ván, hoặc nằm ngồi dưới
đất, hoặc thân đau nhức rất khổ sở cho đến khi mạng sống gần
dứt; những hành động với thân diệu hạnh, khẩu và ý diệu hạnh
của người kia, bấy giờ các việc làm ấy treo ngược lên cao. Ví
như xế chiều, mặt trời lặng xuống, bóng núi cao đổ ngược trên
mặt đất. Cũng vậy, hành động với thân diệu hạnh, khẩu và ý
diệu hạnh của người kia treo ngược từ trên cao. Người ấy tự
nghĩ: ‘Đây là những hành động với thân diệu hạnh, khẩu và ý
diệu hạnh, tuy treo ngược từ trên cao. Vì lúc xế trưa ta làm
nhiều phước, không làm ác, nếu có nơi nào cho những người
không làm ác, không hung bạo, không làm điều phi lý, chỉ làm
phước, tạo nơi quy mạng, nương tựa cho sự sợ hãi, thì ta đến
chỗ lành đó. Do vậy, không sanh tâm hối hận, do không hối hận,
nên chết nhẹ nhàng, mạng chung an lành.’ Đây là điều hỷ lạc
thứ ba mà người trí ngay trong đời hiện tại thân tâm cảm thọ
được.
“Lại nữa, người trí kia hành thân diệu hạnh,
khẩu và ý diệu hạnh. Người ấy sau khi hành thân diệu hạnh,
khẩu và ý diệu hạnh rồi, do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng
chung, tất đến thiện xứ, sanh lên cõi trời. Kẻ kia đã sanh lên
đó rồi, cảm thọ quả báo lành, hoàn toàn khả ái, hoàn toàn khả
lạc, khả ý khả niệm. Nếu ai nghĩ rằng: ‘Nơi nào hoàn toàn khả
ái, hoàn toàn khả lạc, khả ý khả niệm’ nơi đó được nói là
thiện xứ. Vì sao? Vì chốn lành kia, hoàn toàn khả ái, hoàn
toàn khả lạc, khả ý khả niệm.”
Bấy giờ có một vị Tỳ-kheo, từ chỗ ngồi đứng
dậy, trịch vai áo bên phải chắp tay hướng về Phật mà bạch
rằng:
“Bạch Thế Tôn, thiện xứ là thế nào?”
Thế Tôn đáp:
“Này Tỳ-kheo, thiện xứ không thể nói hết được,
nghĩa là nói về sự hoan lạc nơi thiện xứ, chỉ nói rằng thiện
xứ chỉ có hoan lạc.”
Tỳ-kheo lại hỏi:
“Bạch Thế Tôn, xin Ngài có thể dùng ví dụ để dễ
hiểu nghĩa ấy chăng?”
Thế Tôn đáp:
“Cũng có thể dùng ví dụ để làm rõ nghĩa ấy. Ví
dụ Chuyển luân vương thành tựu bảy báu và bốn ý túc của loài
người. Này Tỳ-kheo, ý ngươi nghĩ sao? Chuyển luân vương kia
thành tựu đầy đủ bảy báu và bốn như ý túc của loài người thì
nơi vua kia nhân đó thân tâm có lãnh thọ hỷ lạc cùng cực
chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, thành tựu được một như ý túc
loài người còn lãnh thọ được hỷ lạc cùng cực, huống nữa là
Chuyển luân vương thành tựu hết bảy báu và bốn như ý túc loài
người, há chẳng phải là lãnh thọ hỷ lạc cùng cực đó sao?”
Bấy giờ Thế Tôn tay cầm viên đá nhỏ bằng hạt
đậu hỏi Tỳ-kheo:
“Ngươi có thấy viên đá nhỏ bằng hạt đậu mà Ta
cầm trong tay chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, có thấy.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Tỳ-kheo, ý ông nghĩ sao? Viên đá nhỏ như
hạt đậu mà ta cầm đây đem so với Tuyết sơn vương cái nào lớn
hơn?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, viên đá nhỏ như hạt đậu mà Thế
Tôn cầm đó đem so với Tuyết sơn vương thật quá nhỏ, nhỏ gấp
trăm gấp ngàn, gấp vạn lần không thể so sánh kịp, không thể
tính toán, không thể so sánh được, chỉ nói là Tuyết sơn vương
rất lớn, quá lớn thôi.”
Thế Tôn lại bảo:
“Này Tỳ-kheo, nếu viên đá nhỏ như hạt đậu mà Ta
cầm đây đem so với Tuyết sơn vương, nó thật quá nhỏ, quá nhỏ,
nhỏ gấp trăm gấp ngàn, gấp vạn lần, trọn không thể so sánh
kịp, không thể tính toán, không thể ví dụ được, chỉ nói là
Tuyết sơn vương rất lớn, quá lớn thôi. Cũng vậy, này Tỳ-kheo,
nếu Chuyển luân vương đã thành tựu đầy đủ và bốn như ý túc,
nơi vua kia thân tâm cảm thọ hỷ lạc cùng cực, nếu đem so sánh
với hỷ lạc ở cõi trời, nó thật quá nhỏ, nhỏ gấp trăm, gấp ngàn
vạn lần, không thể so sánh, không thể tính toán, không thể ví
dụ được. Nghĩa là hoan lạc nơi thiện xứ, chỉ hoàn toàn hoan
lạc thôi.
“Này Tỳ-kheo, thế nào là sự hoan lạc nơi thiện
xứ? Có thiện thiện xứ gọi là lục xúc, nếu chúng sanh sanh vào
trong đó, khi đã sanh đến đó rồi, hoặc sắc được thấy bởi sắc,
mắt, khả hỷ, khả ý, khả niệm, ý nhuần ái, ý thiện lạc, thì đó
là thiện xứ. Thanh được nghe nơi tai, lưỡi được ngửi bởi mũi,
vị được nếm bởi lưỡi, sự xúc chạm nơi thân, pháp được biết bởi
ý; khả hỷ, khả lạc, khả ý, khả niệm, ý nhuần ái, thì đó là
nhuần ái, ý thiện lạc, thì đó là thiện lạc. Như vậy gọi là sự
hoan lạc ở thiện xứ.
“Này Tỳ-kheo, Ta đã dùng vô số phương tiện để
nói về thiện xứ, nói sự việc ở nơi thiện xứ cho các thầy nghe.
Song sự hoan lạc nơi thiện xứ kia không thể nào nói hết được.
Chỉ nói là nơi thiện xứ hoàn toàn chỉ có hoan lạc mà thôi.
“Này các Tỳ-kheo, nếu người trí tuệ kia, có khi
từ thiện xứ sanh xuống, hoặc sanh nhầm nhà rất giàu sang, tiền
tài vô số, nuôi nhiều tôi tớ và súc mục, phong hộ thực ấp,
thóc lúa đầy đủ và biết bao các thứ nhu dụng sinh tồn khác. Họ
là hạng người nào? Là nhà đại trưởng giả Cư sĩ, nhà trưởng giả
dòng Sát-lợi, nhà trưởng giả dòng Phạm chí và các nhà đại phú
gia khác. Tiền của vố số, nuôi nhiều tôi tớ và súc mục, phong
hộ thực ấp, thóc lúa đầy đủ, và biết bao các thứ nhu dụng sinh
tồn khác. Sanh nhầm nhà như vậy, đoan chánh, khả ái, nhiều
người kính thuận, danh vang cùng khắp, có oai đức lớn, nhiều
người kính mến, nhiều người nhắc đến. Rồi người ấy lại hành
thân diệu hạnh, khẩu và ý diệu hạnh. Sau khi hành thân diệu
hạnh, khẩu và ý diệu hạnh rồi, do nhân duyên đó khi thân hoại
mạng chung trở lại thiên xứ, sanh lên thiên giới. Ví như hai
người đánh bạc, trong đó một người ăn và tiếp tục đánh, ăn
được nhiều tiền tài. Người đó nghĩ rằng: ”Ta chẳng làm ruộng,
nhưng ván đầu ta ăn và tiếp tục canh bạc như vậy, ta lấy được
nhiều tiền tài.” Này Tỳ-kheo, canh bạc đó quá nhỏ mà được
nhiều tiền của. Này Tỳ-kheo, canh bạc này mới đáng kể, đó là
hành thân diệu hạnh, khẩu và ý diệu hạnh. Sau khi hành thân
diệu hạnh, hành khẩu và ý diệu hạnh, do nhân duyên đó, khi
thân hoại mạng chung trở lại thiện xứ, sanh lên cõi trời. Này
Tỳ-kheo, các việc thiện này là sự việc rất đáng vui, rất đáng
thích, rất đáng được thích ý.
“Này Tỳ-kheo, các pháp của người trí tuệ được
nói như vậy, há không đầy đủ chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, thật sự các pháp của người trí
tuệ kia được nói như vậy là đầy đủ.”
Thế Tôn bảo:
“Đó là pháp của người ngu si và pháp của người
trí tuệ. Các thầy phải biết pháp của người ngu si và pháp của
người trí tuệ. Đã biết pháp của người ngu si và pháp của người
trí tuệ rồi, thì phải xả bỏ pháp của người ngu si và chọn lấy
pháp của người trí tuệ. Các thầy phải học như vậy.”
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi
nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-