-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng
Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Tỳ-kheo A-lê-tra
[02] vốn là một người Già-đà-bà-lê
[03] sanh ác kiến như vầy, ‘Tôi hiểu Đức Thế Tôn
nói pháp như vầy, ‘Hành dục không bị chướng ngại.[04]”
Các Tỳ-kheo nghe như vậy, đi đến chỗ Tỳ-kheo
A-lê-tra hỏi:
“Này A-lê-tra, thật thầy có nói như vầy, ‘Tôi
hiểu Đức Thế Tôn nói pháp như vầy, ‘Hành dục không bị chướng
ngại chăng’?’.”
Khi ấy A-lê-tra đáp:
“Này chư Hiền, tôi thật sự hiểu Đức Thế Tôn nói
pháp như vầy, ‘Hành dục không bị chướng ngại.’”
Các Tỳ-kheo khiển trách A-lê-tra rằng:
“Thầy chớ nói như vậy; chớ xuyên tạc Đức Thế
Tôn. Xuyên tạc Đức Thế Tôn là không tốt. Đức Thế Tôn cũng
không nói như vậy. Này A-lê-tra, dục có chướng ngại. Đức Thế
Tôn đã dùng vô lượng phương tiện để nói dục có chướng ngại.
Này A-lê-tra, thầy nên xả bỏ ác kiến ấy đi.”
Tỳ-kheo A-lê-tra bị các Tỳ-kheo khiển trách,
nhưng vẫn cố chấp ác kiến của mình và nhất quyết nói, ‘Đây là
điều chân thật, ngoài ra là hư vọng.’ Và lặp lại ba lần như
vậy.
Chúng Tỳ-kheo không thể khuyên Tỳ-kheo A-lê-tra
xả bỏ ác kiến ấy liền đứng dậy ra về, và đến chỗ Phật cúi đầu
đảnh lễ sát chân Phật, ngồi sang một bên bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo A-lê-tra sanh ác kiến
như vầy: Tôi hiểu Đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Hành dục
không bị chướng ngại’. Bạch Thế Tôn, chúng con nghe vậy, liền
đi đến chỗ Tỳ-kheo A-lê-tra hỏi rằng: ‘Này A-lê-tra, thầy có
thật nói như vầy: Tôi hiểu Đức Thế Tôn thuyết pháp như vầy,
‘Hành dục không bị chướng ngại chăng’?’ Tỳ-kheo A-lê-tra trả
lời chúng con rằng, ‘Này chư Hiền, thật sự tôi hiểu Đức Thế
Tôn nói pháp như vầy: Hành dục là không bị chướng ngại.’ Bạch
Thế Tôn, chúng con khiển trách rằng, ‘Này A-lê-tra, chớ nói
như vậy, chớ xuyên tạc Đức Thế Tôn. Xuyên tạc Đức Thế Tôn là
không tốt. Đức Thế Tôn cũng không nói như vậy. Này A-lê-tra,
dục có chướng ngại. Đức Thế Tôn đã dùng vô lượng phương tiện
nói dục có chướng ngại. Này A-lê-tra, thầy nên xả bỏ ác kiến
ấy đi.’ Chúng con khiển trách, nhưng Tỳ-kheo A-lê-tra vẫn cố
chấp ác kiến của mình và nhất quyết nói, ‘Đây là điều chân
thật, ngoài ra là hư vọng.’ Và lặp lại ba lần như vậy. Bạch
Thế Tôn, chúng con không thể khuyên Tỳ-kheo A-lê-tra xả bỏ ác
kiến ấy, liền đứng dậy ra về.”
Đức Thế Tôn nghe rồi, bảo một Tỳ-kheo:
“Hãy đến chỗ Tỳ-kheo A Lê Tra, nói như vầy,
‘Thế Tôn cho gọi thầy’.”
Lúc bấy giờ vị Tỳ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật nhiễu quanh ba vòng
rồi đi. Khi đến chỗ Tỳ-kheo A-lê-tra liền nói:
“Đức Thế Tôn gọi thầy.”
Tỳ-kheo A-lê-tra liền đến chỗ Phật, đảnh lễ sát
chân Phật, rồi ngồi xuống môït bên. Đức Thế Tôn nói:
“Này A-lê-tra, thật ngươi có nói như vầy, ‘Tôi
hiểu Đức Thế Tôn nói pháp như vầy, ‘Hành dục không bị chướng
ngại’ chăng?’.”
A-lê-tra đáp:
“Bạch Thế Tôn, thật sự con hiểu Đức Thế Tôn nói
pháp như vầy, ‘Hành dục không bị chướng ngại’.”
Đức Thế Tôn khiển trách:
“Này A-lê-tra, bằng cách nào mà ngươi hiểu Ta
thuyết pháp như vậy? Ngươi nghe từ miệng người nào nói Ta
thuyết pháp như vậy? Này người ngu si kia, Ta không nói một
chiều mà ngươi lại nói một chiều chăng? Khi nghe các Tỳ-kheo
khiển trách, ngươi khi ấy phải đúng như pháp mà trả lời. Nay
để Ta hỏi lại các Tỳ-kheo đã.”
Liền đó, Đức Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:
“Các ngươi cũng hiểu như vầy, rằng Ta nói pháp
như vầy, ‘Hành dục không bị chướng ngại’ chăng?”
Bấy giờ các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Các thầy hiểu Ta nói pháp như thế nào?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, chúng con hiểu Thế Tôn nói pháp
như vầy, ‘Dục có chướng ngại, Thế Tôn nói dục có chướng ngại.
Dục như bộ xương khô, Thế Tôn nói dục như bộ xương khô, dục
như miếng thịt, Thế Tôn nói dục như miếng thịt. Dục như bó
đuốc, Thế Tôn nói dục như cây đuốc trong tay. Dục như hầm lửa,
Thế Tôn nói dục như hầm lửa. Dục như rắn độc, Thế Tôn nói dục
như rắn độc. Dục như mộng, Thế Tôn nói dục như mộng. Dục như
đồ vay mượn, Thế Tôn nói dục như đồ vay mượn. Dục như trái
cây, Thế Tôn nói dục như trái cây
[05]’ Chúng con hiểu Thế Tôn nói pháp như vậy.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành thay! Này các Tỳ-kheo, các
ngươi hiểu Ta nói pháp như vậy. Vì sao? Vì Ta cũng nói như
vầy, ‘Dục có chướng ngại, Ta nói dục có chướng ngại. Dục như
bộ xương khô, Ta nói dục như bộ xương khô. Dục như miếng thịt,
Ta nói dục như miếng thịt. Dục như bó đuốc, ta nói dục như cây
đuốc trong tay. Dục như hầm lửa, Ta nói dục như hầm lửa. Dục
như rắn độc, Ta nói dục như rắn độc. Dục như mộng, Ta nói dục
như mộng. Dục như đồ vay mượn, Ta nói dục như đồ vay mượn. Dục
như trái cây, Ta nói dục như trái cây.’”
Đức Thế Tôn lại khen:
“Lành thay! Lành thay! Này các Tỳ-kheo, các
ngươi hiểu Ta nói pháp như vậy. Nhưng A-lê-tra ngu si này tiếp
thọ và lãnh hội nghĩa và văn điên đảo. Kia nhân tiếp thọ và
lãnh hội nghĩa và văn điên đảo cho nên xuyên tạc Ta, để tự gây
thương hại cho mình. Có phạm, có tội. Đó là điều mà các phạm
hạnh có trí không hoan hỷ, và là một đại tội
[06] Này người ngu si kia, có biết chỗ ác bất thiện
này chăng?”
Lúc ấy Tỳ-kheo A-lê-tra bị Đức Thế Tôn khiển
trách ngay mặt, trong lòng rầu rĩ, cúi đầu im lặng, không lời
để biện bạch, suy nghĩ mông lung.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn sau khi khiển trách ngay
mặt Tỳ-kheo A-lê-tra, rồi nói với các Tỳ-kheo:
“Nếu pháp Ta nói mà ý nghĩa được hiểu biết đầy
đủ, tường tận thì nên thọ trì đúng như vậy. Nếu pháp Ta nói mà
ý nghĩa không được hiểu biết đầy đủ, tường tận thì phải hỏi
lại Ta hay các vị Phạm hạnh có trí. Vì sao? Hoặc có người ngu
si ghi nhớ và hiểu biết điên đảo văn và nghĩa. Chúng do tự
mình hiểu biết điên đảo và ghi nhớ điên đảo mà biết pháp kia
như vậy như vậy, tức chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ-tha,
nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng
giải, vị tằng hữu pháp và thuyết nghĩa
[07] Chúng vì tranh luận mà biết nghĩa này, chứ không
vì giải thoát mà biết nghĩa này. Chúng biết pháp này vì mục
đích ấy nên không đạt đến nghĩa này, chỉ chuốc lấy cực khổ
luống công, tự gây phiền nhọc. Vì sao? Vì chúng ghi nhớ và
hiểu biết điên đảo về pháp.
“Cũng như có người muốn bắt được rắn, bèn đi
tìm rắn. Khi đi tìm rắn, nó đi vào rừng hoang, thấy con rắn
rất lớn, liền bước tới, dùng tay nắm lấy lưng rắn; con rắn
ngóc đầu quay lại, hoặc mổ vào tay, chân, hoặc các chi thể
khác. Nó làm công việc tìm bắt rắn, nhưng không đạt được mục
đích, chỉ chuốc lấy cực khổ luống công, tự gây phiền nhọc. Vì
sao? Vì không biết rõ phương pháp bắt rắn. Cũng vậy, có thể có
người ngu si ghi nhớ và hiểu biết điên đảo văn và nghĩa. Chúng
do tự mình hiểu biết điên đảo và ghi nhớ điên đảo mà biết pháp
kia như vậy như vậy, tức chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết,
kệ-tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ,
quảng giải, vị tằng hữu pháp và thuyết nghĩa. Chúng vì tranh
luận mà biết nghĩa này, chứ không vì giải thoát mà biết nghĩa
này. Chúng biết pháp này vì mục đích ấy nên không đạt đến
nghĩa này, chỉ chuốc lấy cực khổ luống công, tự gây phiền
nhọc. Vì sao? Vì chúng ghi nhớ và hiểu biết điên đảo về pháp.
“Hoặc có một thiện gia nam tử ghi nhớ và hiểu
biết về nghĩa và văn không điên đảo. Người ấy do tự mình ghi
nhớ và hiểu biết không điên đảo về nghĩa và văn mà biết pháp
kia như vậy như vậy, tức chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ
tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ,
quảng giải, vị tằng hữu pháp và thuyết nghĩa. Người ấy không
vì tranh luận mà biết nghĩa này, nhưng vì giải thoát mà biết
nghĩa này. Người ấy biết pháp này vì mục đích ấy nên đạt đến
nghĩa này, không chuốc lấy cực khổ luống công, không tự gây
phiền nhọc. Vì sao? Vì ghi nhớ và hiểu biết không điên đảo về
pháp.
“Cũng như có người muốn bắt được rắn, bèn đi
tìm rắn. Khi đi tìm rắn, người ấy tay cầm gậy sắt, đi trong
rừng hoang, thấy một con rắn rất lớn, liền lấy gậy sắt đè lên
đầu con rắn, rồi lấy tay nắm đầu nó. Con rắn kia tuy ngoặt
đuôi lại, hoặc quấn tay chân, hoặc các chi thể khác, nhưng
không thể mổ. Người kia làm như vậy để tìm bắt rắn và đạt được
mục đích, không chuốc lấy cực khổ luống công, cũng không tự
gây phiền nhọc. Vì sao? Vì người ấy khéo biết cách bắt rắn.
Cũng vậy, hoặc có thiện gia nam tử ghi nhớ và hiểu biết về
nghĩa và văn không điên đảo. Người ấy do tự mình ghi nhớ và
hiểu biết không điên đảo về nghĩa và văn mà biết pháp kia như
vậy như vậy, tức chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân
duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị
tằng hữu pháp và thuyết nghĩa. Người ấy không vì tranh luận mà
biết nghĩa này, nhưng vì giải thoát mà biết nghĩa này. Người
ấy biết pháp này vì mục đích ấy nên đạt đến nghĩa này, không
chuốc lấy cực khổ luống công, không tự gây phiền nhọc. Vì sao?
Vì ghi nhớ và hiểu biết không điên đảo về pháp.
“Ta thường nói cho các ngươi nghe về thí dụ
chiếc bè, là để cho các thầy biết xả bỏ, chứ không phải để
chấp thủ.
“Ta thường nói cho các thầy nghe về thí dụ
chiếc bè như thế nào, để các thầy biết xả bỏ chứ không phải để
chấp thủ?
“Ví như, con nước từ núi đổ xuống, rất sâu, rất
mênh mông, chảy xiết và cuốn trôi nhiều thứ. Ở khoảng giữa đó
không có thuyền, bè, cũng không có cầu ngang. Một người đi
đến, có việc ở bờ bên kia nên cần phải qua. Người ấy bèn nghĩ
rằng, ‘Ở đây con nước từ trên núi chảy xuống, rất sâu, rất
mênh mông, chảy xiết và cuốn trôi rất nhiều thứ. Ở khoảng giữa
không có thuyền bè, cũng không có cầu ngang để có thể qua. Ta
có công việc ở bờ bên kia cần phải qua phải dùng phương tiện
gì để ta đến bờ bên kia được yên ổn?’ Rồi người ấy tự suy
nghĩ, ‘Nay ở bên này, ta hãy góp nhặt cỏ, cây, cột lại làm bè
[08] để bơi qua.’ Người ấy bèn ở bên bờ bên này,
góp nhặt cỏ cây, cột lại làm bè rồi bơi qua. Đến bờ bên kia
được yên ổn, rồi tự nghĩ rằng, ‘Chiếc bè này có nhiều lợi ích.
Nhờ nó mà ta đã yên ổn bơi từ bờ bên kia đến bờ bên này. Nay
ta hãy vác nó lên vai phải hoặc đội trên đầu mà đi.’ Người ấy
bèn vác lên vai phải, hoặc trên đầu mà mang đi. Ý các ngươi
nghĩ sao? Người ấy làm như vậy, có lợi ích gì đối với chiếc bè
không?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Thế Tôn lại nói:
“Người ấy phải làm thế nào mới có thể có lợi
ích đối với chiếc bè? Người ấy nghĩ như vầy, ‘Chiếc bè này có
nhiều lợi ích, nhờ nó mà ta an ổn từ bờ bên kia đến bờ này.
Nay ta có nên thả chiếc bè này trở lại trong nước, hoặc để nó
trên bờ rồi bỏ đi chăng?’ Người ấy mang chiếc bè này thả lại
trong nước, hoặc để nó bên bờ rồi bỏ đi. Ý các ngươi nghĩ sao?
Người ấy làm như vậy, có thể có lợi ích đối với chiếc bè
chăng?”
Bấy giờ các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, có.”
Thế Tôn lại nói:
“Cũng vậy, Ta thường nói cho các ngươi nghe về
thí dụ chiếc bè là để cho các ngươi biết mà xả bỏ, chứ không
phải để chấp thủ. Nếu các ngươi biết Ta thường nói thí dụ về
chiếc bè, đối với pháp còn phải xả bỏ huống là phi pháp chăng?
“Lại nữa, có sáu kiến xứ
[09] Những gì là sáu? Tỳ-kheo đối với những gì
thuộc về sắc, hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội, hoặc
ngoại, hoặc tinh, hoặc thô, hoặc diệu, hoặc bất diệu, hoặc
gần, hoặc xa; tất cả những sắc ấy không phải là sở hữu của ta,
ta không là sở hữu của sắc ấy, nó cũng không phải là tự ngã.
Những gì thuộc thọ, tưởng, những gì thuộc về kiến này, đều
thấy chúng không phải là sở hữu của ta, ta không là sở hữu của
chúng, ta sẽ không có, ta sẽ không hiện hữu, tất cả chúng đều
không là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của chúng, và
cũng không phải là thần ngã
[10] Như vậy do tuệ, quán sát mà biết như thật về
chúng.
“Những gì là thọ; những gì là tưởng
[11]; những gì thuộc kiến này, đều không phải là sở
hữu của ta, ta không phải là sở hữu của chúng, và cũng không
phải là thần ngã. Như vậy do tuệ, quán sát mà biết như thật về
chúng.
“Những gì thuộc về kiến này, thấy, nghe, nhận
thức, biết
[12], được thủ đắc, được quán sát, được tư niệm bởi
ý, từ đời này đến đời kia, từ đời kia đến đời này; tất cả
chúng đều không là sở hữu của ta, ta không là sở hữu của
chúng, và cũng không phải là thần ngã. Như vậy, do tuệ quán
sát mà biết như thật về chúng. Những gì thuộc kiến này, đây là
thần ngã
[13], đây là thế gian, đây là ta, ta sẽ hiện hữu ở
đời sau, là pháp thường trụ, không biến dịch, là pháp hằng
hữu, không hủy hoại; tất cả chúng đều không phải là sở hữu của
ta, ta không là sở hữu của chúng, cũng không phải là thần ngã.
Như vậy, do tuệ biết như thật về chúng.”
Bấy giờ có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy,
trịch vai áo bên phải chắp tay hướng về Đức Phật bạch:
“Bạch Thế Tôn, có trường hợp nào nhân bên trong
mà có sợ hãi chăng
[14]?”
Thế Tôn đáp:
“Có.”
Tỳ-kheo lại hỏi:
“Bạch Thế Tôn, thế nào là nhân bên trong mà có
sợ hãi?”
Thế Tôn đáp:
“Tỳ-kheo, thấy như vầy, nói như vầy, ‘Kia trước
đây hoặc giả không có; giả thiết có ta không được
[15].’ Và do thấy như vậy, nói như vậy, người ấy ưu
sầu, phiền muộn, khóc lóc, đấm ngực, phát cuồng si. Này
Tỳ-kheo, như vậy là nhân bên trong mà có sợ hãi.”
Tỳ-kheo tán thán Thế Tôn, rồi lại hỏi:
“Bạch Thế Tôn, có trường hợp nào nhân bên
trongmà không có sợ hãi chăng?”
Đức Thế Tôn nói:
“Có.”
Tỳ-kheo lại hỏi:
“Bạch Thế Tôn, thế nào là nhân bên trong mà
không có sợ hãi?”
Thế Tôn đáp:
“Tỳ-kheo, không thấy như vầy, không nói như
vầy, ‘Kia trước đây hoặc giả không có; giả thiết có ta không
được.’ Và do không thấy như vậy, không nói như vậy, người ấy
không ưu sầu, không phiền muộn, không khóc lóc, không đấm
ngực, không phát cuồng si. Này Tỳ-kheo, như vậy là nhân bên
trong mà không có sợ hãi.”
Tỳ-kheo tán thán Thế Tôn, rồi lại hỏi:
“Bạch Thế Tôn, có trường hợp nào nhân bên
ngoài
[16] mà có sợ hãi chăng?”
Thế Tôn đáp:
“Có.”
Tỳ-kheo lại hỏi:
“Bạch Thế Tôn, thế nào là nhân bên ngoài có sự
sợ hãi?”
Thế Tôn đáp:
“Tỳ-kheo, thấy như vầy, nói như vầy, ‘Đây là
thần ngã, đây là thế gian, đây là ta, ta sẽ hiện hữu ở đời
sau.’ Và do thấy như vậy, nói như vậy, mà hoặc giả gặp Như Lai
hay đệ tử của Như Lai, thông minh trí tuệ nói năng khéo léo,
thành tựu trí tuệ. Và bấy giờ Như Lai, hoặc đệ tử của Như Lai
vì diệt trừ hết tất cả tự thân, cho nên nói pháp; vì xả ly tất
cả lậu, tất cả ngã và sở tác của ngã; diệt kiết sử kiêu mạn,
cho nên nói pháp. Người ấy được nghe Như Lai hoặc đệ tử của
Như Lai vì diệt tất cả tự thân cho nên nói pháp, vì xả ly tất
cả lậu, tất cả ngã và sở tác của ngã, diệt kiết sử kiêu mạn,
cho nên nói pháp; nó bèn ưu sầu, phiền muộn, khóc lóc, đấm
ngực, phát si cuồng nói như vầy, ‘Ta sẽ đoạn hoại, không còn
tái sanh nữa.’ Vì sao vậy? Này Tỳ-kheo, vì người ấy trong một
thời gian dài, hằng sống với những điều không khả ái, không
khả lạc, không xứng ý niệm ấy, cho nên nó ưu sầu, phiền muộn,
khóc lóc, đấm ngực, phát si cuồng. Này Tỳ-kheo, như vậy là
nhân bên ngoài mà có sợ hãi.”
Tỳ-kheo tán thán Thế Tôn, rồi lại hỏi:
“Bạch Thế Tôn, có trường hợp nào nhân bên ngoài
mà không có sợ hãi chăng?”
Thế Tôn đáp:
“Có.”
Tỳ-kheo lại hỏi:
“Bạch Thế Tôn, thế nào là do bên ngoài mà không
có sợ hãi?”
Thế Tôn đáp:
“Tỳ-kheo, không thấy như vầy, không nói như
vầy, ‘Đây là thần ngã, đây là thế gian, đây là ta, ta sẽ hiện
hữu ở đời sau.’ Và do không thấy như vậy, không nói như vậy,
mà hoặc giả gặp Như Lai, hoặc đệ tử của Như Lai, thông minh
trí tuệ, nói năng khéo léo, thành tựu trí tuệ; và bấy giờ Như
Lai hoặc đệ tử của Như Lai, vì diệt tất cả tự thân cho nên nói
pháp; vì xả ly tất cả ngã và sở tác của ngã, diệt kiết sử kiêu
mạn, cho nên nói pháp. Người ấy được nghe Như Lai hoặc đệ tử
của Như Lai, vì diệt tất cả tự thân cho nên nói pháp; vì xả ly
tất cả lậu, tất cả ngã và sở tác của ngã, diệt kiết sử kiêu
mạn, cho nên nói pháp. Người ấy không ưu sầu, không phiền
muộn, không khóc lóc, không đấm ngực, không phát cuồng si mà
nói như vầy, ‘Ta sẽ bị đoạn diệt, không còn tái sanh nữa.’ Vì
sao vậy? Này Tỳ-kheo, vì người ấy trong một thời gian dài hằng
sống với những điều khả ái, khả lạc, xứng ý niệm ấy, cho nên
không ưu sầu, không phiền muộn, không khóc lóc, không đấm
ngực, không phát cuồng si. Này Tỳ-kheo, như vậy là do bên
ngoài mà không có sự sợ hãi.”
Bấy giờ, Tỳ-kheo tán thán Đức Thế Tôn:
“Lành thay! Lành thay!”
Tán thán rồi, khéo léo ghi nhận và trì tụng,
rồi im lặng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen các Tỳ-kheo:
“Lành thay! Lành thay! Tỳ-kheo, ngươi chấp thủ
những điều có thể được chấp thủ như vậy
[17], mà sau khi chấp thủ lại không sanh ưu sầu,
không phiền muộn, không khóc lóc, không đấm ngực, không phát
cuồng si. Các ngươi thấy có cái có thể chấp thủ nào mà khi
được chấp thủ ấy lại không sanh ưu sầu, không phiền muộn,
không khóc lóc, không đấm ngực, không phát si cuồng chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Thế Tôn khen rằng:
“Lành thay! Lành thay! Các ngươi y cứ vào cái
sở y của kiến như vậy
[18], mà kiến được y cứ ấy lại không sanh ưu sầu,
không phiền muộn, không khóc lóc, không đấm ngực. Các ngươi có
thể y cứ vào tri kiến như vậy, mà tri kiến được y cứ ấy không
sanh ưu sầu, không phiền muộn, không khóc lóc, không đấm ngực,
không phát cuồng si chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành thay! Các ngươi chấp thủ thân
như vậy, mà có thân nào là thường trụ không biến dịch, là pháp
không hoại diệt chăng? Các ngươi có thấy sự chấp thủ nào về
thân được chấp thủ như vậy mà là thường trụ, không biến dịch,
là pháp không hoại diệt chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành thay! Nói là do thần ngã mà có
ta
[19], không có thần ngã thì không có ta. Đó là thần
ngã và sở hữu của thần ngã, đều không thể bắt được, không thể
khái niệm được, và kiến xứ ràng buộc với kiết sử tùy miên ở
trong tâm
[20], cũng không thể bắt được, cũng không thể khái
niệm được. Này Tỳ-kheo, như vậy há không phải là đầy đủ để nói
về kiến và tương tục bởi kiến, như là Tỳ-kheo A-lê-tra, vốn là
một người Già-đà-bà-lê chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn. Như vậy là đầy
đủ để nói về kiến và tương tục bởi kiến, như Tỳ-kheo A-lê-tra,
vốn là một người già-đà-bà-lê.”
“Lại nữa, có sáu kiến xứ. Những gì là sáu?
Tỳ-kheo, đối với những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, vị lai,
hiện tại, hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc tinh, hoặc thô, hoặc
diệu, hoặc bất diệu, hoặc gần hoặc xa; tất cả sắc ấy đều không
phải sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của sắc ấy, cũng
không phải là thần ngã. Như vậy do tuệ mà quán sát biết như
thật về sắc. Những gì thuộc về thọ, tưởng, thuộc về kiến này
đều thấy chúng không phải là sở hữu của ta, ta không phải là
sở hữu của chúng, ta sẽ không có, ta sẽ không hiện hữu, tất cả
chúng đều không là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của
chúng, cũng không phải là tự ngã. Như vậy, do tuệ mà quán sát
biết như thật về chúng. Những gì thuộc về kiến này, thấy,
nghe, nhận thức, biết, được thủ đắc, được quán sát, được tư
niệm bởi ý, từ đời này đến đời kia, từ đời kia đến đời này;
tất cả chúng đều không phải là sở hữu của ta, ta không phải là
sở hữu của chúng, cũng không phải là thần ngã. Như vậy do tuệ
mà quán sát biết như thật về chúng. Những gì thuộc kiến này,
‘đây là tự ngã, đây là thế gian, đây là ta, ta sẽ hiện hữu ở
đời sau, là pháp thường trụ, không biến dịch, là pháp hằng
hữu, không hủy hoại’; tất cả chúng đều không phải là sở hữu
của ta, ta không phải là sở hữu của chúng, cũng không phải là
thần ngã. Như vậy, do tuệ quán sát mà biết như thật về chúng.
“Này Tỳ-kheo, những gì thuộc về sáu kiến xứ ấy
mà thấy không phải là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu
của chúng, cũng không phải là thần ngã, và do không kiến chấp
như vậy, nên không chấp thủ thế gian này. Do không chấp thủ
thế gian này nên không có sợ hãi. Do không sợ hãi mà chứng đắc
Niết-bàn, biết như thật rằng, ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã
vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’ Đó
gọi là Tỳ-kheo băng hào, vượt hào, phá đổ thành quách, không
cửa, được gương Thánh trí tuệ.
“Thế nào là Tỳ-kheo băng hào
[21]? Hào vô minh đã diệt tận, đã biến tri, nhổ
tuyệt gốc rễ, dẹp tan không còn sanh trở lại nữa. Như vậy là
Tỳ-kheo đã được bằng hào.
“Thế nào là Tỳ-kheo vượt hào
[22]? Hào hữu ái đã diệt tận, đã biến tri, nhổ
tuyệt gốc rễ, dẹp tan không còn sanh trở lại nữa, như vậy là
Tỳ-kheo đã vượt hào.
“Thế nào là Tỳ-kheo phá đổ thành quách
[23] Sanh tử vô cùng đã diệt tận, đã biến tri, nhổ
tuyệt gốc rễ, dẹp tan không còn sanh trở lại nữa. Như vậy là
Tỳ-kheo phá đổ thành quách.
“Thế nào là Tỳ-kheo không cửa
[24]? Năm hạ phần kiết đã diệt tận, đã biến tri,
nhổ tuyệt gốc rễ, dẹp tan không còn sanh trở lại nữa. Như vậy
là Tỳ-kheo đã được không cửa.
“Thế nào là Tỳ-kheo được gương Thánh trí tuệ
[25]? Ngã mạn đã diệt tận, đã biến tri, nhổ tuyệt
gốc rễ, dẹp tan không còn sanh trở lại nữa. Như vậy là Tỳ-kheo
đã được gương Thánh trí tuệ.
“Đó gọi là Tỳ-kheo băng hào, vượt hào, phá đổ
thành quách, không cửa, được gương Thánh trí tuệ.
“Như Lai chánh giải thoát như vậy, dù
Nhân-đà-la
[26], dù Thiên Y-sa-na
[27], dù Phạm thiên và quyến thuộc, không ai có thể
tìm thấy thức sở y của Như Lai. Như Lai là Phạm, Như Lai là
Mát lạnh, Như Lai là Không phiền nhiệt, Như Lai là Bất dị
[28] Ta nói như vầy, Các Sa-môn Phạm chí xuyên tạc Ta
bằng những lời hư vọng không chân thật rằng, ‘Sa-môn Cù-đàm
chủ trương hư vô
[29] Quả thật có chúng sanh, nhưng lại chủ trương
là đoạn, diệt, hoại
[30]. Nhưng nếu trong đó không có, thì Ta đã không
nói rằng, ‘Như Lai ấy trong đời hiện tại, được nói là không ưu
phiền, nếu có ai mạ lỵ, đánh đập, sân hận, trách mắng Như Lai;
trong trường hợp đó Như Lai không sân hận, không thù hận, trọn
không có hại tâm.’ Nếu có ai đánh đập, mạ lỵ, sân hận, trách
mắng Như Lai, ý Như Lai thế nào? Như Lai tự nghĩ như vầy, ‘Có
hành vi tạo tác nào của Ta trong quá khứ để đưa đến sự kiện
này.’ Đối với sự mạ lỵ, đánh đập, sân hận, trách mắng Như Lai,
Như Lai nghĩ như vầy, ‘Nếu có ai cung kính cúng dường, lễ bái,
tôn trọng, thừa sự Như Lai; Như Lai không do đó mà vui thích,
không do đó mà hoan hỷ, tâm không do đó mà hoan lạc.’ Nếu có
ai cung kính, cúng dường, lễ bái, tôn trọng thừa sự Như Lai,
thì ý Như Lai thế nào? Như Lai tự nghĩ, ‘Ta nay do những gì
được biết, do những gì được đoạn trừ mà đưa đến sự kiện này?’
Nếu có ai cung kính, cúng dường, lễ bái, tôn trọng, thừa sự
Như Lai, Như Lai nghĩ như vậy.”
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có ai mạ lỵ đánh đập, trách mắng các
ngươi; hay nếu có ai cung kính, cúng dường, lễ bái, tôn trọng,
thừa sự các ngươi; các ngươi nhân đó cũng chớ nên sân hận, thù
hằn, chớ có tâm hại, cũng chớ vui thích, hoan hỷ, cũng đừng có
tâm hoan lạc. Vì sao? Hãy nghĩ rằng, ”Chúng ta không có thần
ngã, không có sở hữu của thần ngã. Ví như nay đây, ngoài cửa
Thắng lâm này có cỏ khô, cây khô, có một người mang đi đốt,
tùy ý mà dùng. Ý các ngươi nghĩ sao? Cây cỏ khô kia có nghĩ
rằng, ‘Người ấy mang ta đi đốt, tùy ý mà dùng không’?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Cũng vậy, nếu có ai mạ lỵ, đánh đập, sân hận,
trách mắng các ngươi hay nếu có ai cung kính, cúng dường, lễ
bái, tôn trọng, thừa sự các ngươi; các ngươi nhân đó cũng chớ
nên sân hận, thù hằn, chớ có hại tâm cũng chớ có vui thích,
hoan hỷ, cũng đừng có tâm hoan lạc. Vì sao? Hãy nghĩ rằng, ‘Ta
không có thần ngã, không có sở hữu của thần ngã.’
“Pháp của Ta giảng thuyết toàn thiện, được phơi
bày, được quảng bá, không có trống khuyết, được lưu bố, tuyên
truyền, cho trời người. Pháp của Ta được giảng thuyết toàn
thiện, được phơi bày, được quảng bá, không có trống khuyết,
được lưu bố, tuyên truyền, cho đến trời người như vậy, nếu có
ai với chánh trí giải thoát mà mạng chung, với người ấy không
giả thuyết có luân chuyển vô cùng.
“Pháp của Ta được giảng thuyết toàn thiện, được
phơi bày, được quảng bá, không có trống khuyết, được lưu bố,
tuyên truyền cho đến trời người. Pháp của Ta được giảng thuyết
toàn thiện, được phơi bày được quảng bá, không có trống
khuyết, được lưu bố, tuyên truyền cho đến trời người như vậy,
nếu có ai với năm hạ phần kiết tận diệt mà mạng chung sẽ sanh
ở chỗ kia mà vào Niết-bàn, được pháp bất thối, không trở lại
thế gian này.
“Pháp của Ta được giảng thuyết toàn thiện, được
phơi bày, được quảng bá, không có trống khuyết, được lưu bố
tuyên truyền cho đến trời người. Pháp của Ta được giảng thuyết
toàn thiện, được phơi bày, được quảng bá, không có trống
khuyết, được lưu bố tuyên truyền cho đến trời người như vậy,
nếu có ai với ba kiết sử đã tận diệt, dâm nộ si đã mỏng, chứng
đắc Nhất vãng lai, sau khi qua lại nhân gian thượng một lần
nữa, sẽ chứng đắc khổ biên.
“Pháp của Ta được giảng thuyết toàn thiện, được
phơi bày, được quảng bá, không có trống khuyết, được lưu bố
tuyên truyền cho đến trời người. Pháp của Ta được giảng thuyết
toàn thiện, được phơi bày được quảng bá, không có trống
khuyết, được lau bố, tuyên truyền cho đến trời người như vậy,
nếu có ai với ba kiết sử đã tận diệt, đắc Tu-đà-hoàn, không
đọa vào pháp ác, quyết định sẽ đến chánh giác, chỉ cần bảy lần
qua lại cõi trời cõi người, sau bảy lần qua lại sẽ chứng đắc
khổ biên.
“Pháp của Ta được giảng thuyết toàn thiện, được
phơi bày, được quảng bá, không có trống khuyết, được lưu bố
tuyên truyền cho đến trời người. Pháp của Ta được giảng thuyết
toàn thiện, được phơi bày được quảng bá, không có trống
khuyết, được lan bố, tuyên truyền cho đến trời người như vậy,
nếu có ai với tâm tín lạc nơi Ta mà mạng chung, chắc chắn sẽ
mau vào thiện xứ
[31]“
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản
Hán, quyển 54. Tương đương Pāli, M. 22. Alagadupama-sutta.
-
[02]
A-lê-tra. Pāli: Ariha.
-
[03] Bổn
già-đà-bà-lê. Pāli: Gadhabādhi-pubba. Trước kia là người
huấn luyện chim ưng.
-
[04] Chướng
ngại, hoặc nói chướng đạo pháp. Pāli: anatāriyakā dhammā.
Trường hợp này được ghi trong Luật tạng. Xem Tứ Phần Luật 17
(Đơn đề 68 và 69. No.1428, Đại 22, tr.682 và tt).
-
[05] Xem thí
dụ
Kinh 203 sau.
-
[06] Ở đây
được gọi là Tăng-già-bà-thi-sa, vì không chịu nghe Tăng can
gián. Xem Tứ Phần Luật (sđd., nt).
-
[07] Xem
Kinh 1 trên.
-
[08] Để bản,
bệ phiệt, bè cỏ (?); Tống-Nguyên-Minh: bạc phiệt, bè liếp.
Pāli: kulla, chiếc bè.
-
[09] Kiến
xứ. Pāli: dihihāna, cơ sở của kiến chấp.
-
[10] Hán:
diệc phi thị thần. Pāli: na m’eso attā, cái đó không phải là
tự ngã của tôi.
-
[11] Bản Hán
không kể hành.
-
[12] Hán:
kiến văn thức tri. Pāli: diha suta muta viññāta, cái được
thấy, được nghe, được cảm giác, được nhận thức.
-
[13] Hán:
thử thị thần. Pāli: so attā, đây là tự ngã. Xem cht.10 trên.
-
[14] Pāli:
siyā nu kho bhante asati bahiddhā asati paritassanā ti, có
thể có cái gì không thật hữu ở bên ngoài mà khiến cho có sợ
hãi?
-
[15] Văn Hán
đoạn này hơi tối nghĩa. Tham khảo Pāi: ahu vata me, ta vata
me natthi, chao ôi, nó (trước kia) đã là của tôi, (nay) thực
sự không là của tôi.
-
[16]
Pāli:...ajjha asati..., không có thật ở bên trong. Xem
cht.14 trên.
-
[17] Thọ như
thị sở khả thọ. Pāli: ta attavādupādānā upādiyetha yasa...,
các ngươi có thể chấp thủ Ngã luận thủ nào (cố chấp quan
điển hữu ngã) mà...
-
[18] Y như
thị khiến sở khả. Pāli: ta bhikkhave dihinissaya nissayetha
yasa..., các ngươi có thể y chỉ sở y của kiến...
-
[19] Nhân
thần cố hữu ngã. Bản Pāli không thấy đề cập.
-
[20] Tâm
trung sở hữu kiến xứ kết trước chư sử diệc bất khả đắc.
-
[21] Độ
tiệm. Pāli: ukkhittapaligho, người đã dẹp các chướng ngại.
-
[22] Quá
tiệm. Pāli: abbūhesiko, người đã nhổ lên cột trụ.
-
[23] Phá
quách.Pāli: sakiaparikkho, người đã lấp hào.
-
[24] Vô môn.
Pāli: niraggao, người đã tháo chốt cửa.
-
[25] Thánh
trí tuệ kính. Pāli: ariyo oannaddhajo pannabhāro visayutto,
vị Thánh đã hạ cờ, đã đặt gánh nặng xuống, đã thoát ly.
-
[26]
Nhân-đà-la. Pāli: Inda, tức Thiên Đế Thích.
-
[27]
Y-sa-na. Pāli: Īsānā.
-
[28] Như Lai
thị Phạm, Như Lai thị lãnh, Như Lai bất phiền nhiệt, Như Lai
bất dị.
-
[29] Ngự vô
sở thi thiết. Pāli: venayiko Samano Gotamo, Sa-môn Cù-đàm,
người dẫn đến chỗ hư vô.
-
[30] Thi
thiết đoạn diệt hoại. Pāli: uccheda vināsa vibhava
paññāpeti, chủ trương đoạn diệt, hoại diệt, phi hữu.
-
[31] Còn một
câu chót trong bản Hán: như thượng hữu dư. Không rõ ý.