-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong Đông
viên, giảng đường Lộc tử mẫu.
Bấy giờ Thế Tôn vào lúc xế trưa, từ tĩnh tọa
dậy, bước xuống giảng đường, nói với Tôn giả A-nan rằng:
“Bây giờ ta và ngươi đến sông A-di-la-bà-đề
[02] để tắm.”
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Xin vâng, bạch Thế Tôn.”
Rồi Tôn giả A-nan cầm then cửa tản bộ đi đến
khắp các cốc, gặp Tỳ-kheo nào cũng nói rằng:
“Chư Hiền, hãy đi đến nhà Phạm chí La-ma.[03]“
Các Tỳ-kheo nghe nói, bèn cùng nhau đến nhà
Phạm chí La-ma.
Thế Tôn dẫn Tôn giả A-nan đi đến sông
A-di-la-bà-đề, cởi y để trên bờ, rồi xuống nước tắm. Tắm xong,
trở lên lau mình, mặc y. Bấy giờ Tôn giả A-nan đứng sau Thế
Tôn, cầm quạt quạt Phật. Rồi Tôn giả A-nan chấp tay hướng về
Đức Phật bạch rằng:
[04]
“Bạch Thế Tôn, nhà của Phạm chí La-ma rất tốt,
ngăn nắp, rất khả ái. Cúi mong Thế Tôn vì lòng từ bi mẫn đi
đến nhà của Phạm chí La-ma.”
Thế Tôn im lặng nhận lời của Tôn giả A-nan. Rồi
Thế Tôn dẫn Tôn giả A-nan đi đến nhà Phạm chí La-ma. Bấy giờ
tại nhà của Phạm chí La-ma một số đông Tỳ-kheo đã tụ tập ngồi
lại để thuyết pháp. Đức Phật đứng ngoài cửa, đợi các Tỳ-kheo
nói pháp xong. Khi số đông các Tỳ-kheo đã nói pháp xong, các
ngài ngồi im lặng. Thế Tôn biết rồi bèn tằng hắng và gõ cửa.
Các Tỳ-kheo nghe, tức thì đi ra mở cửa.
[05] Thế Tôn bước vào nhà Phạm chí La-ma, trải chỗ
ngồi trước chúng Tỳ-kheo mà ngồi và hỏi:
“Các Tỳ-kheo vừa rồi nói những câu chuyện gì
vậy? Vì công việc gì mà tụ tập ngồi ở đây?”
Lúc ấy các Tỳ-kheo đáp rằng:
“Bạch Thế Tôn, vừa rồi, chúng con thuyết pháp.
Do pháp sự này mà tụ tập ngồi tại đây.”
Thế Tôn khen rằng:
“Lành thay! Lành thay, Tỳ-kheo khi tụ tập ngồi
lại nên làm hai việc; một là thuyết pháp, hai là im lặng. Vì
sao vậy? Ta sẽ giảng pháp cho các ngươi. Hãy lắng nghe! Hãy
lắng nghe! Hãy tư niệm kỹ.”
Lúc ấy các Tỳ-kheo bạch rằng:
“Chúng con kính vâng lời lắng nghe.”
Đức Phật nói:
“Có hai loại tìm cầu. Một là Thánh cầu
[06] và hai là phi Thánh cầu. Thế nào là phi Thánh
cầu? Có một hạng người thật sự lệ thuộc bệnh tật nhưng lại tìm
cầu tật bệnh; thật sự lệ thuộc sự chết nhưng lại tìm cầu sự
chết, thật sự lệ thuộc vào ưu bi khổ não, lệ thuộc sự tạp uế,
nhưng lại tìm cầu sự tạp uế.
“Thế nào là thật sự lệ thuộc vào bệnh tật
[07] nhưng lại tìm cầu sự bệnh tật? Thế nào là sự
tật bệnh? Con cái, anh em, đó là bệnh pháp. Voi, ngựa, bò, dê,
nô tỳ, tiền tài, trân bảo, lúa gạo, là sự bệnh pháp. Chúng
sanh ở trong đó xúc chạm, đắm nhiễm, tham ái, dính trước, kiêu
ngạo mà thọ nhập, không thấy sự nguy hiểm, không thấy sự xuất
yếu.
“Thế nào là sự lệ thuộc sự già,
[08] sự chết, sự sầu bi ưu não, sự tạp uế? Con cái,
anh em đó là sự tạp uế. Voi, ngựa, bò, dê, nô tỳ, tiền tài,
trân bảo, đó là sự tạp uế, sự tổn hại. Chúng sanh ở trong đó
đắm nhiễm, xúc chạm, tham ái, dính trước, kiêu ngạo mà thọ
nhập, không thấy sự nguy hiểm, không thấy sự xuất yếu. Người
đó muốn tìm cầu cái không tật bệnh, an ổn, vô thượng,
Niết-bàn, nhưng đạt được Niết-bàn an ổn vô thượng là trường
hợp không thể có. Tìm cầu cái không già, không chết, không sầu
bi ưu não, không tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn, nhưng đạt
được Niết-bàn vô thượng an ổn là trường hợp không thể có. Đó
gọi là phi Thánh cầu.
“Thế nào là Thánh cầu? Có một hạng người suy
nghĩ như thế này, ‘Ta thật sự lệ thuộc tật bệnh, nhưng không
bỏ tìm cầu sự tật bệnh. Ta thật sự lệ thuộc sự già, sự chết,
sự sầu bi khổ não, sự tạp uế, nhưng không bỏ sự tìm cầu tạp
uế. Vậy ta hãy tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn
Niết-bàn. Tìm cầu cái không già, không chết, không sầu bi ưu
não, không tạp uế, vô thượng an ổn, Niết-bàn’. Người ấy bèn
tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn và đạt được
không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn là trường hợp có thể có.
Tìm cầu cái không già, không chết, không sầu bi ưu não, không
tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn, và đạt được không già, không
chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng an ổn
Niết-bàn, là trường hợp có thể có.
“Ta trước kia khi chưa chứng Vô thượng Chánh
đẳng chánh giác cũng suy nghĩ như vầy, ‘Ta thực sự lệ thuộc
tật bệnh, không bỏ tìm cầu sự tật bệnh. Ta thực sự lệ thuộc
già, chết, sầu bi ưu não, tạp uế, nhưng không bỏ tìm cầu cái
không già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế. Vậy
ta có nên tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn.
Tìm cầu cái không già, không chết, không sầu bi ưu não, không
tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn chăng?’
“Ta vào thời thiếu niên trong trắng, mái tóc
xanh mướt, cho đến thời tráng niên năm hai mươi chín tuổi, bấy
giờ sống cực kỳ hoan lạc, vui đùa, trang sức, du hành. Ta vào
lúc ấy mặc dù cha mẹ khóc lóc, thân thuộc không ai vui, nhưng
Ta cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình,
sống không gia đình, để học đạo; thủ hộ thân mạng thanh tịnh,
thủ hộ khẩu và ý mạng thanh tịnh. Ta đã thành tựu giới thân ấy
rồi, lại muốn tìm cầu sự không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn;
sự không già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế,
vô thượng an ổn Niết-bàn, cho nên lại tìm nơi A-la-la
Già-la-ma,
[09] hỏi rằng, ‘Thưa A-la-la, tôi muốn theo pháp của
người để tu học phạm hạnh được chăng?’ A-la-la trả lời rằng,
‘Này Hiền giả, không có gì là không được. Hiền giả muốn hành
thì hành’. Ta lại hỏi, ‘Người làm thế nào để tự tri, tự giác,
tự tác chứng pháp này?’ A-la-la đáp, ‘Ta vượt qua tất cả thức
xứ, đạt được vô sở hữu xứ, thành tựu an trụ. Do đó, pháp của
ta được tự tri, tự giác, tự tác chứng’. Ta lại suy nghĩ như
vầy, ‘Không chỉ riêng A-la-la mới có niềm tin này. Ta cũng có
niềm tin này. Không chỉ riêng A-la-la mới có tinh tấn này, Ta
cũng có sự tinh tấn này. Không chỉ riêng A-la-la mới có tuệ
này, Ta cũng có tuệ này’. A-la-la đối với pháp này đã tự tri,
tự giác, tự tác chứng. Ta muốn chứng pháp này nên sống cô độc,
viễn ly, tại một nơi trống vắng, yên tĩnh. Sau khi tâm không
phóng dật, tu hành tinh cần, không bao lâu Ta chứng pháp ấy.
Sau khi chứng pháp ấy rồi, Ta lại tìm đến chỗ A-la-la
Già-la-ma, hỏi rằng, ‘Thưa A-la-la, phải chăng pháp này được
tự tri, tự giác, tự tác chứng, nghĩa là vượt qua tất cả vô
lượng thức xứ, đạt được vô sở hữu xứ, thành tựu an trụ?’
A-la-la trả lời Ta rằng, ‘Hiền giả, đó là pháp ta tự tri, tự
giác, tự tác chứng, nghĩa là vượt qua tất cả vô lượng thức xứ,
đạt được vô sở hữu xứ, thành tựu an trụ’. A-la-la lại nói với
Ta rằng, ‘Hiền giả, ấy là cũng như sự tác chứng của ta đối với
pháp này, Hiền giả cũng vậy. Cũng như sự tác chứng của Hiền
giả đối với pháp này, ta cũng vậy. Hiền giả, người hãy đến
đây, cùng ta lãnh đạo đồ chúng này’. Đó là A-la-la đối xử với
Ta với địa vị Tôn sư, coi Ta ngang hàng, tối thượng cung kính,
tối thượng cúng dường, tối thượng hoan hỷ.
“Ta lại suy nghĩ như vầy, ‘Pháp này không đưa
đến trí; pháp này không đưa đến giác, không đưa đến Niết-bàn.
Vậy Ta hãy xả bỏ pháp này, để cầu thêm nữa, sự không bệnh, vô
thượng an ổn Niết-bàn; tìm cầu sự không già, không chết, không
sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn’. Ta bèn
bỏ pháp này đi tìm cầu sự không bệnh, vô thượng an ổn
Niết-bàn.
“Rồi Ta đi đến chỗ Uất-đà-la La-ma Tử,
[10] hỏi rằng, ‘Thưa Uất-đà-la, tôi muốn ở trong
pháp của người mà học hỏi, có thể được chăng?’ Uất-đà-la La-ma
Tử trả lời Ta rằng, ‘Hiền giả, không có gì là không được.
Người muốn học thì học’. Ta lại hỏi, ‘Thưa Uất-đà-la, cha ngài
là La-ma,[11]
người tự tri, tự giác, tự tác chứng pháp gì?’ Uất-đà-la La-ma
Tử đáp, ‘Hiền giả, ta vượt qua tất cả vô sở hữu xứ, đạt được
phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trụ. Hiền giả,
pháp mà cha ta La-ma tự tri, tự giác, tự tác chứng, là pháp
này’. Ta lại suy nghĩ như vầy, ‘Không chỉ riêng La-ma mới có
niềm tin này, Ta cũng có niềm tin này. Không chỉ riêng La-ma
mới có sự tinh tấn này, Ta cũng có sự tinh tấn này. Không chỉ
riêng La-ma mới có tuệ này, Ta cũng có tuệ này. La-ma đã tự
tri, tự giác, tự tác chứng pháp này, tại sao ta lại không tự
tri, tự giác, tự tác chứng pháp này?’ Vì Ta muốn chứng pháp
này, cho nên sống cô độc tại một nơi xa vắng, không nhàn, yên
tĩnh, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần. Sau khi Ta sống
cô độc, viễn ly, tại một nơi trống vắng, yên tĩnh, không bao
lâu chứng được pháp ấy. Khi chứng pháp ấy rồi, Ta lại đến
Uất-đà-la La-ma Tử hỏi rằng, ‘Thưa Uất-đà-la La-ma Tử, cha
ngài là La-ma, phải chăng pháp này được tự tri, tự giác, tự
tác chứng, nghĩa là vượt qua tất cả vô sở hữu xứ, đạt được phi
hữu tưởng, phi vô tưởng xứ, thành tựu an trụ?’ Uất-đà-la La-ma
Tử trả lời Ta rằng, ‘Hiền giả, cha ta là La-ma, đây là pháp
được tự tri, tự giác, tự tác chứng, nghĩa là vượt qua tất cả
vô sở hữu xứ, đạt được phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ, thành
tựu an trụ’. Uất-đà-la lại nói với Ta rằng, ‘Cũng như cha ta
tác chứng pháp này, Hiền giả cũng vậy. Cũng như Hiền giả tác
chứng pháp này, cha ta cũng vậy. Hiền giả hãy đến đây cùng ta
lãnh đạo đồ chúng này’. Uất-đà-la đối xử với Ta ngang địa vị
Tôn sư, coi Ta cũng như bậc Tôn sư, tối thượng cung kính, tối
thượng cúng dường, tối thượng hoan hỷ. Ta lại suy nghĩ như
vầy, ‘Pháp này không đưa đến trí, không đưa đến giác, không
đưa đến Niết-bàn. Vậy Ta hãy xả bỏ pháp này để đi tìm cầu thêm
nữa, sự không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn; tìm cầu sự không
già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng
an ổn Niết-bàn’. Ta liền xả bỏ pháp ấy để đi tìm cầu sự không
bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn; tìm cầu sự không già, không
chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng an ổn
Niết-bàn.
“Rồi Ta đi về phía nam núi Tượng đỉnh,
[12] đến tại Uất-bệ-la,
[13] một ngôi làng của Phạm chí tên gọi là Tư na
[14] đây là một khoảng đất xinh xắn, khả ái, núi
rừng sầm uất, sông Ni-liên-thuyền
[15] với dòng nước trong xanh chảy lên bờ. Ta thấy
khoảnh đất ấy bèn nghĩ rằng, ‘Nếu một thiện nam tử muốn học
đạo, nên ở nơi này mà học, Ta cũng học đạo; vậy Ta hãy ở nơi
này mà học. Rồi Ta ôm cỏ đến cây giác thọ
[16] Đến nơi, Ta rải cỏ xuống, trải ni-sư-đàn lên
và ngồi kiết già, kỳ hạn sẽ không rời khỏi chỗ ngồi cho đến
khi nào chứng đắc Lậu tận. Và Ta không rời khỏi chỗ ngồi cho
đến khi chứng đắc Lậu tận.
“Ta tìm cầu sự không bệnh, vô thượng an ổn
Niết-bàn, liền đạt được sự không bệnh, vô thượng an ổn
Niết-bàn. Tìm cầu sự không già, không chết, không sầu bi ưu
não, không tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn. Liền đạt được sự
không già không chết, không ưu bi sầu não, không tạp uế, vô
thượng an ổn Niết-bàn, sanh tri, sanh kiến, định đạo phẩm pháp
[17]
‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần
làm đã làm xong, biết như thật không còn tái sanh nữa’.
“Khi Ta vừa chứng Vô thượng Chánh đẳng chánh
giác, liền nghĩ như vầy, ‘Ta sẽ thuyết pháp cho ai trước
nhất?’ Rồi Ta lại nghĩ rằng, ‘Ta có nên đi đến thuyết pháp cho
A-la-la Già-la-ma trước chăng?’
“Lúc bấy giờ có Thiên thần trụ trong hư không
nói với Ta rằng: “Đại Tiên nhân, xin biết cho, A-la-la
Già-la-ma vừa mạng chung đến nay đã được bảy ngày’. Ta cũng tự
biết A-la-la Già-la-ma đã mạng chung được bảy ngày. Ta lại
nghĩ như vầy, ‘A-la-la Già-la-ma, thiệt thòi thay cho người
ấy, không nghe được pháp này. Nếu được nghe pháp này, người ấy
sẽ nhanh chóng biết rõ pháp tùy pháp[18]
“Khi Ta vừa chứng Vô thượng Chánh đẳng chánh
giác, liền nghĩ như vầy, ‘Ta sẽ thuyết pháp cho Uất-đà-la
La-ma Tử trước nhất chăng?” Thiên thần lại trụ trong hư không
nói với Ta rằng, ‘Đại Tiên nhân, xin biết cho, Uất-đà-la La-ma
Tử mạng chung đến nay đã hai tuần thất’. Ta cũng tự biết Uất
đầu la La-ma Tử mạng chung đã hai tuần thất. Ta lại nghĩ như
vầy, ‘Uất-đà-la La-ma Tử thiệt thòi thay cho người ấy, không
nghe được pháp này. Nếu nghe được pháp này, người ấy sẽ nhanh
chóng biết rõ pháp tùy pháp’.
“Khi Ta vừa chứng Vô thượng Chánh đẳng chánh
giác, Ta liền suy nghĩ như vầy, ‘Ta sẽ thuyết pháp cho ai
trước nhất?’ Rồi Ta lại nghĩ rằng, ‘Xưa kia, năm Tỳ-kheo theo
hầu hạ Ta, giúp Ta nhiều điều hữu ích. Khi Ta tu hành khổ
hạnh, năm Tỳ-kheo ấy đã thừa sự Ta, nay Ta có nên thuyết pháp
cho năm Tỳ-kheo trước kia chăng?’ Rồi Ta lại nghĩ rằng, ‘Năm
Tỳ-kheo thuở xưa ấy, bây giờ đang ở đâu?’ Bằng thiên nhãn
thanh tịnh vượt hẳn người thường, Ta thấy năm Tỳ-kheo đang ở
tại Ba-la-nại
[19] Tiên nhân trú xứ, trong vườn Lộc giả.
“Ta tùy thuận trụ dưới gốc cây Giác thọ. Sau đó
Ta thu vén y, ôm bát đi về Ba-la-nại, đến đô ấp Gia-thi.[20]
Bấy giờ Dị học Ưu-đà
[21] từ xa trông thấy Ta đi đến, bèn nói với Ta
rằng, ‘Hiền giả Cù-đàm, các căn thanh tịnh, hình sắc thù diệu,
khuôn mặt ngời sáng. Hiền giả Cù-đàm, ai là Tôn sư? Theo ai
học đạo? Tin tưởng pháp của ai?’ Lúc bấy giờ Ta liền nói bài
kệ để trả lời Ưu-đà rằng:
- Ta tối
thượng, tối thắng;
- Nhiễm
trước pháp đã trừ;
- Giải
thoát, ái diệt tận;
- Tự giác,
ai tôn sư?
- Bậc Vô
đẳng, Đại hùng,
- Tự giác,
Vô thượng giác,
- Như Lai,
Thầy thiên, nhơn,
- Biến tri,
thành tựu lực.
“Ưu-đà hỏi rằng:
“–Hiền giả Cù-đàm tự cho là tối thắng chăng?”
“Ta lại nói bài kệ trả lời rằng:
- Đấng Tối
thắng như vậy
- Các lậu đã
tận trừ.
- Ta sát hại
ác pháp,
- Nên tối
thắng là Ta.
“Ưu-đà lại hỏi Ta rằng:
“–Hiền giả Cù-đàm, bấy giờ muốn đi về đâu?”
“Bấy giờ Ta nói bài kệ rằng:
- Ta đến
Ba-la-nại,
- Dóng trống
diệu cam lồ,
- Chuyển
pháp luân vô thượng
- Chưa ai
chuyển trong đời.
“Ưu-đà lại nói với Ta rằng:
“–Hiền giả Cù-đàm, hoặc có thể là như vậy.”
“Rồi vị ấy bước sang con đường tắt mà đi trở
lui.
“Ta một mình đi đến Tiên nhân trụ xứ, trong
vườn Lộc dã. Bấy giờ năm Tỳ-kheo từ xa trông thấy Ta đi đến,
ai cũng lập giao ước với nhau rằng, ‘Chư Hiền, nên biết đó là
Sa-môn Cù-đàm đang đi đến. Người ấy đa dục, đa cầu, ăn với
loại ẩm thực thù diệu, bằng cơm gạo trắng ngon lành, cùng với
bột, tô, mật, và bôi xoa thân thể bằng dầu mè nay lại đến đây.
Các người cứ ngồi. Chớ nên đứng dậy đón tiếp, cũng đừng làm
lễ. Dành sẵn cho một chỗ đó, nhưng đừng mời ngồi, hãy nói rằng
‘Nếu bạn muốn ngồi, xin cứ tùy ý’. Rồi Ta đi đến chỗ năm
Tỳ-kheo. Bấy giờ năm Tỳ-kheo không kham nổi uy đức tối thắng
thù diệu của Ta, tức thì rời chỗ ngồi đứng dậy, người thì ôm y
bát của Ta, người thì trải chỗ ngồi, người thì lấy nước cho Ta
rửa chân. Ta nghĩ rằng, ‘Những người ngu si này sao lại không
bền chí, đã tự mình thiết lập điều ước hẹn, rồi lại làm trái
điều giao hẹn’. Ta biết như vậy rồi bèn ngồi trên chỗ ngồi mà
năm Tỳ-kheo đã dọn sẵn. Khi ấy năm Tỳ-kheo gọi thẳng tên họ Ta
và xưng hô với Ta là ”Bạn”.[22]
”Ta nói với họ rằng, ‘Ta là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, các người đừng gọi thẳng tên họ Ta, cũng đừng gọi Ta là
‘Bạn’. Vì sao vậy? Ta vì tìm cầu sự không bệnh, vô thượng an
ổn Niết-bàn, và đạt được sự không bệnh, vô thượng an ổn
Niết-bàn. Ta tìm cầu sự không già, không chết, không sầu bi ưu
não, không tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn, và đạt được sự
không già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô
thượng an ổn Niết-bàn. Đã sanh tri, sanh kiến, định đạo phẩm
pháp, ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm
xong, không còn tái sanh nữa’. Họ nói với Ta rằng:
“–Này bạn Cù-đàm, trước kia bạn hành như vậy,
đạo tích như vậy, khổ hạnh như vậy mà còn chưa chứng được pháp
thượng nhân, gần kề với Thánh tri, Thánh kiến, huống là ngày
hôm nay đa dục, đa cầu, ăn với thực phẩm thù diệu với gạo
trắng ngon lành, cùng với bột, tô, mật, bôi xoa thân thể bằng
dầu mè chăng?
“Ta lại nói rằng:
“–Này năm Tỳ-kheo, các ngươi trước kia có bao
giờ thấy Ta như vậy, với các căn thanh tịnh, rạng rỡ sáng ngời
chăng?
“Bấy giờ năm Tỳ-kheo lại trả lời với Ta rằng:
“–Trước kia chúng tôi chưa từng thấy bạn với
các căn thanh tịnh, rạng rỡ sáng ngời. Này bạn Cù-đàm, nay bạn
với các căn thanh tịnh, hình sắc thù diệu khuôn mặt sáng ngời.
“Ta lúc ấy nói với họ rằng:
“–Này năm Tỳ-kheo, có hai lối sống cực đoan mà
những người học đạo không nên học. Một là đắm trước dục lạc,
nghiệp hèn hạ, là lối sống của phàm phu. Hai là tự gây phiền,
tự gây khổ, không phải là pháp Hiền Thánh, không tương ưng với
cứu cánh. Này năm Tỳ-kheo, xả bỏ hai cực đoan ấy, có con đường
giữa, thành minh, thành trí, thành tựu định, đạt đến tự tại,
đưa đến trí, đưa đến giác, dẫn đến Niết-bàn. Đó là tám con
đường chân chánh, từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
“Rồi Ta lần lượt giáo hóa năm Tỳ-kheo. Khi giáo
hóa cho hai người thì ba người đi khất thực. Ba người mang
thức ăn về cho đủ sáu người ăn. Khi giáo hóa cho ba người thì
hai người đi khất thực. Hai người mang thức ăn về cho đủ sáu
người ăn. Ta giáo hóa như vậy, họ tìm cầu sự không bệnh, vô
thượng an ổn Niết-bàn. Và đạt được sự không bệnh, vô thượng an
ổn Niết-bàn. Tìm cầu sự không già, không chết, không sầu bi ưu
não, không tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn, và đạt được sự
không già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế và vô
thượng an ổn Niết-bàn; sanh tri, sanh kiến, định đạo phẩm
pháp, ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm
xong, biết như thật không còn tái sanh nữa’.
“Rồi Thế Tôn lại nói với họ rằng:
“–Này năm Tỳ-kheo, có năm thứ công đức của dục,
khả ái, khả lạc, khả ý, khả niệm, hoàn toàn tương ưng với dục.
Đó là sắc được biết bởi mắt, tiếng được biết bởi tai, hương
được biết bởi mũi, vị được biết bởi lưỡi, xúc được biết bởi
thân. Này năm Tỳ-kheo, phàm phu ngu si, không đa văn, không
gặp thiện hữu, không biết Thánh pháp, không điều ngự trong
Thánh pháp, chúng xúc chạm, đắm nhiễm, tham ái, dính trước,
kiêu ngạo mà thọ nhập, không biết sự nguy hiểm, không thấy sự
xuất yếu. Nên biết chúng nghe theo ác ma, làm theo ác ma, rơi
vào ác ma, bị lưới ma quấn chặt, bị cùm ma khóa chặt, không
thoát khỏi sự trói buộc của ma. Này năm Tỳ-kheo, cũng như nai
rừng bị dây buộc chặt nên biết nó phải nghe theo thợ săn, làm
theo thợ săn, rơi vào tay thợ săn, bị lưới thợ săn quấn chặt,
khi thợ săn đến, không thể trốn thoát. Cũng vậy, năm Tỳ-kheo,
phàm phu ngu si, không đa văn, không gặp thiện hữu, không biết
Thánh pháp, không điều ngự trong Thánh pháp, chúng đối với năm
thú diệu dục mà xúc chạm, đắm nhiễm, tham ái, dính trước, kiêu
ngạo, lăn xả vào, thọ dụng mà không thấy sự nguy hiểm, không
thấy sự xuất yếu. Nên biết, chúng phải nghe theo ác ma, làm
theo ác ma, rơi vào tay ác ma, bị lưới ma quấn chặt, bị dây ma
trói xiết, không thoát khỏi sự trói buộc của ma. Này năm
Tỳ-kheo, Đa văn Thánh đệ tử, gặp thiện tri thức, hiểu biết
Thánh pháp, điều ngự trong Thánh pháp, những vị ấy đối với năm
diệu dục, không xúc, không nhiễm, không tham, không trước,
cũng không kiêu ngạo mà thọ nhập, mà thấy sự nguy hiểm, thấy
sự xuất yếu. Nên biết, họ không nghe theo ác ma, không làm
theo ác ma, không bị rơi vào tay ác ma, không bị lưới ma quấn
chặt, không bị dây ma trói siết, bèn thoát khỏi sự trói buộc
của ma. Này năm Tỳ-kheo, cũng như nai rừng thoát khỏi trói
buộc, nên biết nó không phải nghe theo thợ săn, không phải làm
theo thợ săn, không rơi vào tay thợ săn, không bị lưới thợï
săn quấn chặt, không bị dây thợ săn buộc siết. Khi thợ săn
đến, nó có thể trốn thoát. Cũng vậy, này năm Tỳ-kheo, Đa văn
Thánh đệ tử gặp thiện tri thức, hiểu biết Thánh pháp, điều ngự
trong Thánh pháp, vị ấy đối với năm công đức của dục không
xúc, không nhiễm, không tham không trước, cũng không kiêu ngạo
mà thọ nhập, mà thấy sự nguy hiểm, thấy sự xuất yếu. Nên biết
những người ấy không phải nghe theo ác ma, không phải làm theo
ác ma, không rơi vào tay ma, không bị lưới ma quấn chặt, không
bị dây ma buộc siết, bèn thoát khỏi sự trói buộc của ma. Này
năm Tỳ-kheo, nếu lúc Như Lai xuất hiện trong thế gian, là Bậc
Vô Sở Trước, Minh Hạnh Thành Tựu, Đẳng Chánh Giác, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, là
Phật, Chúng Hựu. Vị ấy đoạn trừ cho đến năm triền cái, những
thứ làm tâm tạp uế, tuệ yếu kém, ly dục, ly ác bất thiện pháp
cho đến chứng đắc Tứ thiền thành tựu an trụ.
Vị ấy với định tâm thanh tịnh, như vậy, không
uế, không phiền, nhu nhuyến, an trụ vững vàng, đạt đến bất
động tâm, tu học và tác chứng Lậu tận trí thông. Vị ấy biết
như thật đây là Khổ, biết như thật đây là Khổ tập, biết như
thật đây là Khổ diệt, đây là Khổ diệt đạo. Biết như thật đây
là lậu, đây là lậu tập, đây là lậu diệt, đây là lậu diệt đạo.
Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm
giải thoát hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi biết mình đã
giải thoát, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã
vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Vị ấy
bây giờ tự tại đi, tự tại đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Vì
sao vậy? Vị ấy đã tự mình thấy rõ vô lượng pháp ác bất thiện
đã diệt tận. Cho nên, vị ấy tự tại đi, tự tại đứng, tự tại
ngồi, tự tại nằm. Này năm Tỳ-kheo, cũng như trong khu rừng
vắng, nơi không có bóng người, ở đó nai rừng tự tại đi, tự tại
đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Vì sao vậy? Nai rừng ấy không
nằm trong cảnh giới của thợ săn. Cho nên nó tự tại đi, tự tại
đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Cũng vậy, này năm Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo lậu tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải
thoát, biết như thật ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều
cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Vị ấy lúc bấy
giờ tự tại đi, tự tại đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm. Vì sao
vậy? Vì vị ấy tự mình thấy vô lượng pháp ác bất thiện đã diệt
tận, cho nên tự tại đi, tự tại đứng, tự tại ngồi, tự tại nằm.
Này năm Tỳ-kheo, đó gọi là giải thoát vô dư, đó gọi là sự
không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn. Đó gọi là sự không già
không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng an ổn
Niết-bàn.”
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các
Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương
đương Pāli. M. 26. Ariyapariyesana-sutta.
-
[02]
A-di-la-bà-đề. Pāli: Aciravatī. Trong bản Pāli: Pubbakohaka.
-
[03] La-ma.
Pāli: Rammaka.
-
[04] Một vài
chi tiết trong đoạn này không được mạch lạc.
-
[05] Theo
bản Pāli, đây là một am cốc (Rammakassa brāhmanassa assamo:
thảo am của Bà-la-môn Rammaka) chứ không phải là nhà.
-
[06] Thánh
cầu. Pāli: ariyāpariyesanā.
-
[07] Bệnh
pháp. Pāli: byādhidhamma.
-
[08] Lão
pháp. Pāli: jarādhamma.
-
[09] A-la-la
Già-la-ma. Pāli: Āāra Kālāma.
-
[10]
Uất-đà-la La-ma Tử. Pāli: Udduka Rāmaputta.
-
[11] Nhữ phụ
La-ma; đáng lẽ gọi là La-ma Tử, không hiểu tại sao ở đây lại
nói như vậy. Bản Pāli cũng chỉ gọi Rāma (tên cha) thay vì
gọi Uddaka hay Rāmaputta (tên con).
-
[12] Tượng
đỉnh sơn. Pāli: Gayāsisa.
-
[13]
Uất-bệ-la. Pāli: Uruvelā.
-
[14] Tư-na.
Pāli: Senā.
-
[15]
Ni-liên-thuyền. Pāli: Nerañjarā.
-
[16] Giác
thọ, tức cây bồ-đề.
-
[17] Định
đạo phẩm pháp, bản Pāli: akuppā me vimutti, sự giải thoát
của Ta không dao động.
-
[18] Nguyên
bản Hán: pháp thứ pháp. Đoạn Pāli tương đương không có từ
liên hệ, nhưng thông thường là dhammānudhamma.
-
[19]
Ba-la-nại, Tiên nhơn trụ xứ, Lộc giả uyển. Pāli: Bārāasi
Isipatana Migadāyo.
-
[20] Gia-thi
đô ấp; không rõ ở đâu.
-
[21] Ưu-đà.
Pāli: Upaka.
-
[22] Hán:
khanh ư ngã. Pāli: āvusovādena ca samudācaranti, họ xưng hô
với Ta là ”āvuso” (Bạn, hay Hiền giả)