-
Tôi nghư như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng
Thắng, vườn Cấp cô độc.
[02]
Bấy giờ có bà Ưu-bà-di Tì-xá-khư
[03], đến chỗ Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc,[04]
cúi đầu lê dưới chân, rồi lui ngồi một bên, thưa rằng:
“Bạch Ni sư,[05]
tôi có điều muốn hỏi, mong Ni sư nghe cho chăng?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Tì-xá-khư, có điều gì xin cứ hỏi, sau khi nghe
xong tôi sẽ suy nghĩ.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư liền hỏi:
“Thưa Ni sư, tự thân,[06]
nói là tự thân; vậy thế nào là tự thân?
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Thế Tôn nói năm thạnh ấm
[07] Tự thân là năm thạnh ấm. Đó là sắc thạnh ấm,
là thọ, tưởng, hành, thức thạnh ấm. Đó là năm thạnh ấm được
Thế Tôn nói.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi:
“Bạch Ni sư, sao gọi là Tự thân kiến?”[08]
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Phàm phu ngu si, không đa văn, không gặp thiện
tri thức, không biết Thánh pháp, không chế ngự theo Thánh
pháp,
[09] kẻ ấy thấy sắc là thần ngã, thấy thần ngã có sắc,
thấy trong thần ngã có sắc, thấy trong sắc có thần ngã. Thấy
thọ, tưởng, hành, thức là ngã, thấy ngã có thức, thấy trong
ngã có thức, thấy trong thức có ngã. Đó gọi là thân kiến.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi:
“Bạch Ni sư, sao gọi là không thân kiến?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Đa văn Thánh đệ tử, gặp thiện tri thức, biết
Thánh pháp, khéo léo chế ngự trong Thánh pháp, kẻ ấy không
thấy sắc là thần ngã, không thấy thần ngã có sắc, không thấy
trong sắc có thần ngã, không thấy trong thần ngã có sắc. Không
thấy thọ, tưởng, hành, thức là ngã, không thấy trong ngã có
thức, không thấy trong thức có ngã. Đó gọi là không thân
kiến.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong, hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi:
“Bạch Ni sư, sao gọi là diệt tự thân?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Sắc thạnh ấm bị đoạn trừ không dư tàn, xả, nhả
sạch, không ô nhiễm, diệt, tịch tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức
thạnh ấm đoạn trừ không dư tàn, xả, nhả sạch, không ô nhiễm,
diệt, tịch tịnh. Đó là tự thân diệt.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi:
“Bạch Ni sư, ấm nói là thạnh ấm, thạnh ấm nói
là ấm. Ấm tức là thạnh ấm, hay thạnh ấm tức là ấm? Ấm khác với
thạnh ấm chăng?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Hoặc ấm tức là thạnh ấm. Hoặc ấm chẳng phải là
thạnh ấm. Sao gọi là ấm tức là thạnh ấm? Nếu sắc hữu lậu, được
chấp thủ
[10]; thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu, được chấp
thủ, thì nói ấm tức là thạnh ấm.
“Thế nào nói ấm tức chẳng phải là thạnh ấm? Sắc
vô lậu, không bị chấp thủ, thì nói ấm chẳng phải là thạnh ấm.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi:
“Bạch Ni sư, thế nào là Thánh đạo tám chi?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Thánh đạo tám chi là từ chánh kiến đến chánh
định là tám. Đó gọi là Thánh đạo tám chi.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, Thánh đạo tám chi là hữu vi
chăng?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Đúng vậy, Thánh đạo tám chi là hữu vi.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.” Ưu-bà-di
Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi:
“Bạch Ni sư, có bao nhiêu tụ?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Có ba tụ là giới tụ, định tụ và tuệ tụ.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi:
Bạch Ni sư, Thánh đạo tám chi thâu nhiếp ba tụ
hay ba tụ thâu nhiếp Thánh đạo tám chi?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Không phải Thánh đạo tám chi thâu nhiếp ba tụ,
nhưng ba tụ thâu nhiếp Thánh đạo tám chi. Chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, ba chi Thánh đạo này được nhiếp về Thánh
giới tụ. Chánh niệm, chánh định, hai chi này được thâu nhiếp
vào Thánh định tụ. Chánh kiến, chánh chí, chánh phương tiện,
ba chi này thân nhiếp vào Thánh tuệ tụ. Đó là nói rằng không
phải Thánh đạo tám chi ba tụ, nhưng ba tụ nhiếp Thánh đạo tám
chi.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.” Ưu-bà-di
Tì-xá-khư khen xong, hoan hỷ phụng hành. Lại thưa:
“Bạch Ni sư, diệt là hữu đối chăng?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Diệt là vô đối.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành, lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, Sơ thiền có bao nhiêu chi?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp:
“Sơ thiền có năm chi là giác, quán, hỷ, lạc và
nhất tâm.[11]
Đó là năm chi của Sơ thiền.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại thưa:
“Bạch Ni sư, sao gọi là đoạn, sao gọi là tưởng,
sao gọi là định lực, sao gọi là định công, sao gọi là tu
định?”[12]
Pháp Lạc Tỳ-kheo-ni đáp rằng:
“Nếu có thiện tâm thuần nhất
[13] được gọi là định. Bốn niệm xứ được gọi là định
tưởng. Bốn chánh đoạn được gọi là định lực. Bốn như ý túc được
gọi là định công. Nếu tu tập các thiện pháp này rồi lại thường
chuyên tu tập tinh cần, đó gọi là tu định.
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, có bao nhiêu sự kiện mà sanh thân
sau khi chết rồi, thân bị liệng ngoài gò đống như cây gỗ vô
tình?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Có ba sự kiện khiến sanh thân sau khi chết,
thân bị liệng ngoài gò đống như cây gỗ vô tình. Những gì là
ba? Một là tuổi thọ, hai là hơi ấm, ba là thức. Đó là ba pháp
khiến sanh thân sau khi chết thân bị liệng ngoài gò đống như
cây gỗ vô tình.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong, khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, một người chết và nhập diệt tận
định khác nhau như thế nào?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Chết là mạng đã dứt, hơi ấm lìa thân, các căn
bại hoại. Còn Tỳ-kheo nhập diệt tận định thì tuổi thọ chưa
dứt, hơi ấm cũng không lìa thân, các căn không bại hoại. Đó là
sự khác biệt giữa một người chết và nhập diệt tận định.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, một người diệt tận định và một
người nhập vô tưởng định khác nhau thế nào?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Một người nhập diệt tận định thì tưởng và tri
[14] đều diệt còn một người nhập vô tưởng định thì
tưởng và tri không diệt. Đó là sự khác biệt giữa một người
nhập diệt tận định và nhập vô tưởng định.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, một người từ diệt tận định ra và
từ vô tưởng định ra khác nhau như thế nào?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Tỳ-kheo từ diệt tận định ra không khởi suy
nghĩ này, ‘Ta từ diệt tận định ra’. Tỳ-kheo khi từ vô tưởng
định ra, khởi ý nghĩ này, ‘Ta là hữu tưởng? Hay ta là vô
tưởng?’ Đó là sự khác nhau giữa một người từ diệt tận định ra
và từ vô tưởng định ra.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong, hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi:
“Tỳ-kheo khi nhập diệt tận định có khởi ý nghĩ
rằng, ‘Ta nhập diệt tận định không’?”
Pháp lạc Tỳ-kheo đáp:
“Tỳ-kheo khi nhập diệt tận định không khởi ý
nghĩ rằng, ‘Ta nhập diệt tận định,’ nhưng do theo tâm thức đã
tu tập từ trước, y như vậy mà tiến tới.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, tỳ-kheo từ diệt tận định ra có
khởi ý nghĩ rằng, ‘Ta từ diệt tận định ra’ hay không?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Tỳ-kheo khi từ diệt tận định ra không khởi ý
nghĩ, ‘Ta từ diệt tận định ra”, nhưng bởi thân này và sáu xứ
duyên mạng căn, cho nên từ định mà ra.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, Tỳ-kheo từ diệt tận định ra, tâm
lạc những gì? Thú hướng những gì? Và thuận những gì?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Tỳ-kheo từ diệt tận định ra, tâm lạc đối với
viễn ly, thú hướng viễn ly và tùy thuận viễn ly.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư có bao nhiêu thọ?”
[15]
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Có ba thọ, là cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm
thọ không lạc không khổ. Chúng duyên vào đâu mà có? Duyên vào
xúc.”
[16]
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng hành
lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, thế nào là cảm thọ lạc? Thế nào là
cảm thọ khổ, và thế nào là cảm thọ không khổ không lạc?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Nếu lạc được cảm xúc bởi lạc xúc
[17] mà sanh, thân và tâm cảm giác rất khoái lạc,
thì thọ này gọi là cảm thọ lạc. Nếu khổ được cảm xúc bởi khổ
xúc mà sanh, thân và tâm cảm thọ khổ, không khoái lạc, thì thọ
này gọi là cảm thọ khổ. Nếu không khổ không lạc được cảm xúc
bởi xúc không khổ không lạc mà sanh, thân và tâm cảm thọ không
khổ không lạc, không phải khoái cảm hay không khoái cảm, thì
cảm thọ này gọi là cảm giác không lạc không khổ.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, Đối với cảm thọ lạc, thế nào là
lạc? Thế nào là khổ? Thế nào là vô thường? Thế nào là tai
hoạn? Thế nào là sử? Đối với cảm thọ khổ, thế nào là lạc, thế
nào là khổ, thế nào là vô thường, thế nào là tai hoạn, thế nào
là sử? Đối với cảm thọ không khổ không lạc, thế nào là lạc,
thế nào là khổ, thế nào là vô thường, thế nào là tai hoạn, thế
nào là sử?”[18]
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Đối với cảm thọ lạc, sanh là lạc, trụ là lạc;
biến dịch là khổ; vô thường tức là tai hoạn, và dục là sử; đối
với cảm thọ khổ, sanh là khổ, trụ là khổ, biến dịch là lạc, vô
thường tức là tai hoạn, sân nhuế là sử. Đối với cảm thọ không
khổ không lạc, khổ hay lạc không được biết đến, vô thường tức
là biến dịch và vô minh là sử vậy.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, phải chăng tất cả cảm thọ lạc đều
là dục sử?[19]
Tất cả cảm thọ khổ đều là nhuế sử?
[20] Tất cả cảm thọ không khổ không lạc đều là vô
minh sử?”[21]
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Không phải tất cả cảm thọ lạc đều là dục sử,
không phải tất cả cảm thọ khổ đều là nhuế sử; không phải tất
cả cảm thọ không khổ không lạc đều là vô minh sử. Vì sao cảm
thọ lạc không phải là dục sử? Nếu Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất
thiện pháp, có giác có quán, hỷ lạc do ly dục sanh, chứng Sơ
thiền, thành tựu an trụ. Đó là cảm thọ lạc không phải là dục
sử. Vì sao vậy? Vì đã đoạn dục. Vì sao cảm thọ khổ không phải
là nhuế sử? Như mong cầu vô thượng giải thoát lạc, do sự
nguyện cầu canh cánh mà sanh ra ưu khổ. Đó là cảm thọ khổ
không không phải là nhuế sử. Vì sao? Vì nó đoạn sân nhuế. Vì
sao cảm thọ không khổ không lạc không phải là vô minh sử? Khi
lạc diệt, khổ diệt, ưu hỷ đã có trước cũng diệt, không khổ
không lạc, xả niệm thanh tịnh, đắc đệ Tứ thiền, thành tựu an
trụ. Đó là cảm thọ không khổ không lạc không phải là vô minh
sử. Vì sao? Vì nó đoạn vô minh.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, cảm thọ lạc đối đãi với cái gì?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Cảm thọ lạc lấy cảm thọ khổ làm đối đãi.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, cảm thọ khổ đối đãi với cái gì?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Cảm thọ khổ lấy cảm thọ lạc làm đối đãi.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, cảm thọ vừa lạc vừa khổ đối đãi
với cái gì?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Cảm thọ lạc khổ lấy không khổ không lạc làm
đối đãi.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, cảm thọ không khổ không lạc đối
đãi với cái gì?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Cảm thọ không khổ không lấy vô minh làm đối
đãi.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, vô minh đối đãi với gì?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Vô minh lấy minh làm đối.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, minh đối đãi với gì?”
Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Minh lấy Niết-bàn làm đối.”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư nghe xong khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Bạch Ni sư!”
Ưu-bà-di Tì-xá-khư khen xong hoan hỷ phụng
hành. Lại hỏi rằng:
“Bạch Ni sư, Niết-bàn đối đãi với cái gì?”
“Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng:
“Ông
[22] muốn hỏi những việc vô cùng, nhưng việc ông hỏi
không thể cùng tận giới hạn của tôi được. Niết-bàn không có
đối đãi. Niết-bàn không có quái ngại, vượt qua quái ngại, diệt
trừ quái ngại, do nghĩa này nên tôi theo Thế Tôn hành phạm
hạnh.”
Bấy giờ Ưu-bà-di Tì-xá-khư, khi nghe Tỳ-kheo-ni
Pháp Lạc nói, khéo léo thọ trì, tụng tập, rồi từ chỗ ngồi đứng
dậy, cúi đầu lễ dưới chân Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc, đi nhiễu ba
vòng rồi lui về.
Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc sau khi tiễn
Ưu-bà-di Tì-xá-khư đi cách đó không lâu, đến chỗ Phật, cúi đầu
lễ dưới chân Phật, rồi lui đứng một bên, đem hết những điều
thảo luận cùng Ưu-bà-di Tì-xá-khư bạch lại với Phật, chấp tay
thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, con nói như vậy, đáp như vậy,
không vu báng Thế Tôn chăng? Nói chân thật, nói như pháp,
không có trái nhau, không có tranh cãi, nhầm lẫn chăng?”
Thế Tôn đáp rằng:
“Này Tỳ-kheo-ni, ngươi nói như vậy, đáp như
vậy, không vu báng Ta, ngươi nói chân thật, ngươi nói như
pháp, nói theo thứ lớp của pháp. Đối với như pháp, không có
chống trái nhau, không tranh, không lỗi vậy. Này Tỳ-kheo-ni,
nếu Ưu-bà-di Tì-xá-khư đến hỏi Ta, Ta cũng bằng những văn cú
như vậy, Ta cũng trả lời Ưu-bà-di Tì-xá-khư bằng nghĩa này,
bằng văn cú này. Này Tỳ-kheo-ni, nghĩa này đúng như ngươi đã
nói, ngươi cứ như vậy mà thọ trì. Vì sao, những lời này tức là
giáo nghĩa vậy.”
Phật thuyết như vậy, Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc và chư
Tỳ-kheo nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương
đương Pāli: M.44. Cūa-vedalla-sutta.
-
[02] Bản
Pāli nói tại Rājagaha, Veuvana, Kalandakanivāpa.
-
[03]
Tì-xá-khư Ưu-bà-di. Trong bản Pāli: Visākho upāsako, nam cư
sĩ Visākha chứ không phải nữ cư sĩ Visākha.
-
[04] Pháp
Lạc Tỳ-kheo-ni. Pāli: Dhammadinnā bhikkhunī. Bà được xếp vào
hàng những Tỳ-kheo-ni có tài biện thuyết. Trước kia bà là vợ
của Visākha ở Rājigaha. Bản chữ Hán có thể nhầm Visākha này
với Visākā, một nữ cư sĩ hộ đạo nhiệt thành ngang Cấp Cô
Độc.
-
[05] Hiền
Thánh. Pāli: ayye, ”bạch Thánh ni!”
-
[06] Tự
thân. Pāli: sakkāya, hữu thân, hay ”tát-ca-da”.
-
[07] Ngũ
thạnh ấm, hoặc nói là ngũ thủ uẩn. Pāli: pañca
upādānakkhandhā.
-
[08] Tự thân
kiến, cũng nói là hữu thân kiến, hay tát-ca-da tà kiến, có
hai mươi trường hợp. Pāli: sakkāya-dihi.
-
[09] Bất ngự
Thánh pháp. Pāli: ariyadhamme avinīto.
-
[10] Hán:
hữu thọ.
-
[11] Giác,
quán, hỷ, lạc, nhất tâm; hay tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm hay
tâm nhất cảnh tánh. Pāli: vitakka, vicāra, pīti, sukha,
cittekaggatā.
-
[12] Đoạn,
theo trả lời đây là định. Pāli: samādhi (định),
samādhinimittā(định tướng), samādhiparikkhāra (định lực,
định công hay tư trợ, tư cụ của định), samādhibhavana (định
tu, tu định).
-
[13] Đắc
nhất hay nói là tâm nhất cảnh tánh, hay tâm nhất thú tánh.
Pāli: ekaggatā.
-
[14] Tưởng
tri, hay tưởng và thọ. Pāli: saññā-vedayita.
-
[15] Hán:
giác, tức thọ, hay cảm thọ. Pāli: vedanā.
-
[16] Hán:
cánh lạc. Pāli: phassa.
-
[17] Lạc
cánh lạc sở xúc sanh.
-
[18] Sử, kết
sử, hay tùy miên. Pāli: anusaya.
-
[19] Dục sử,
hay tham dục tùy miên. Pāli: rāgānusaya.
-
[20] Nhuế
sử, hay sân tùy miên. Pāli: paṭighānusaya.
-
[21] Vô minh
sử, hay vô minh tùy miên. Pāli: avijjānusaya.
-
[22] Hán:
quân. Có thể nam, có thể nữ. Có sự bất nhất về phái tính
nhân vật trong bản Hán. Pāli: avuso.