- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
-
-
-
-
Tôi nghe như vầy.
-
Một thời Phật du hóa giữa những người họ Thích, trú trong một
đô ấp của Thích gia tên là Di-lũ-ly
[02].
-
Bấy giờ Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la và Trường Tác
[03] vì có những việc cần làm nên cùng đi đến một thị trấn
tên gọi là Thành
[04] . Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la, đến một khu vườn nơi
ấy, nhìn thấy những gốc cây vắng vẻ, không tiếng động, xa
lánh, không có sự dữ, không có bóng người, thích hợp cho sự
tĩnh tọa. Sau khi nhìn thấy như vậy, nghĩ nhớ Đức Thế Tôn,
Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la nói rằng:
-
“Này Trường Tác, ở đây, những gốc cây này vắng vẻ, không có
tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người,
thích hợp cho sự tĩnh tọa. Tại chỗ này ta đã nhiều lần đến
thăm viếng Đức Thế Tôn. Này Trường Tác, Đức Thế Tôn hiện giờ
đang ở đâu? Ta muốn đến thăm.”
-
Trường Tác trả lời:
-
“Tôi nghe nói Đức Thích Tôn đang du hóa giữa những người họ
Thích, trú trong một đô ấp của Thích gia, tên gọi là
Di-lũ-ly.”
-
Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la lại hỏi:
-
“Này Trường Tác, Di-lũ-ly, đô ấp của Thích gia cách đây bao
xa?”
-
“Trường Tác đáp:
-
“Tâu Thiên vương, cách đây ba cu-lô-xá
[05].”
-
Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la nói:
-
“Này Trường Tác, ngươi hãy ra lệnh cho sửa soạn xa giá. Ta
muốn đến chỗ Thế Tôn.”
-
Trường Tác vâng lời cho sửa soạn xa giá, rồi tâu rằng:
-
“Tâu Thiên vương, xa giá đã sửa soạn xong, xin vâng ý Thiên
vương.”
-
Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la bèn lên xe, dong khỏi thành
ngoài đi đến Di-lũ-ly, đô ấp của Thích gia.
-
Bấy giờ, ngoài cổng Di-lũ-ly, một số đông các Tỳ-kheo đang đi
kinh hành trên một khoảng đất trống. Ba-tư-nặc vua nước
Câu-tát-la đến nơi các Tỳ-kheo hỏi rằng:
-
“Thưa các Tôn giả, Đức Thế Tôn hiện đang nghỉ mát ban ngày ở
đâu?”
-
Các Tỳ-kheo trả lời rằng:
-
“Đại vương, ngôi nhà lớn hướng Đông kia, với cửa sổ mở và cửa
lớn đóng ấy, Đức Thế Tôn hiện đang nghỉ mát ban ngày tại đó.
Đại vương nếu muốn đến thăm, có thể đi đến nơi đó, đến nơi hãy
đứng bên ngoài, rồi tằng hắng và gõ cửa. Đức Thế Tôn nghe tất
sẽ mở cửa.”
-
Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la bèn xuống xe.
-
Khi một vị Sát-lợi Đảnh Sanh xuất hiện để cai trị nhân dân, và
ban hành giáo lệnh cho cõi đất, thì có năm nghi trượng. Đó là
kiếm, lọng, tràng hoa, phất cán ngọc và giày thêu. Vua cởi bỏ
tất cả trao cho Trường Tác. Trường Tác nghĩ rằng:
-
“Thiên vương nay tất chỉ đi vào một mình. Chúng ta nên đứng ở
đây mà đợi vậy.”
-
Rồi Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la với đám tùy tùng vây quanh
bước tới ngôi nhà hướng Đông kia. Đến nơi, vua đứng ngoài tằng
hắng và gõ cửa. Đức Thế Tôn nghe rồi, bèn ra mở cửa. Ba-tư-nặc
vua nước Câu-tát-la đi vào trong nhà đến trước Đức Phật cúi
đầu lễ sát chân, rồi ba lần tự xưng tên họ.
-
“Con là Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la, con là Ba-tư-nặc vua
nước Câu-tát-la!”
-
Đức Thế Tôn đáp:
-
“Như vậy, Đại vương, ngài là Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la.
Ngài là Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la!”
-
Sau ba lần tự xưng tên họ, vua Ba-tư-nặc đảnh lễ dưới chân
Phật và lui ngồi một bên. Đức Thế Tôn hỏi:
-
“Đại vương, Đại vương thấy Ta có những nghĩa lợi nào mà tự hạ
mình đảnh lễ dưới chân và cúng dường cung kính như vậy?”
-
Vua Ba-tư-nặc thưa:
-
“Bạch Thế Tôn, con có sự loại suy về pháp[06]đối
với Thế Tôn. Do đó con nghĩ rằng, ‘Pháp được Như Lai, Bậc Vô
Sở Trước, Đẳng Chánh Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng
đệ tử của Thế Tôn thật khéo thú hướng
[07].’
-
“Bạch Thế Tôn, khi con ngồi trên đô tọa
[08], con nhìn thấy mẹ tranh chấp với con, con tranh chấp
với mẹ; cha tranh chấp với con, con tranh chấp với cha; cho
đến anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc tranh chấp lẫn nhau.
Trong khi tranh chấp, mẹ nói con xấu, con nói mẹ xấu, cha con,
anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc nói xấu lẫn nhau. Người
thân thích trong nhà còn như thế, huống nữa là người ngoài.
Còn ở đây, con thấy chúng Tỳ-kheo, đệ tử của Thế Tôn theo Thế
Tôn tu hành phạm hạnh. Hoặc nếu có Tỳ-kheo nào gây ra ít nhiều
tranh chấp, xả giới bỏ đạo cũng không nói xấu Phật, không nói
xấu pháp, không nói xấu chúng Tăng, mà chỉ tự chê trách rằng,
‘Tôi xấu xa, thiếu đức hạnh. Tại sao như vậy? Vì tôi không thể
theo Thế Tôn trọn đời tu hành phạm hạnh’. Đó là sự loại suy về
pháp của con đối với Thế Tôn. Do đó con nghĩ rằng, ‘Pháp được
Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác giảng dạy thật là
toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng’.
-
“Bạch Thế Tôn, lại nữa, con thấy một Sa-môn Phạm chí khác đã
ít nhiều học hành phạm hạnh, hoặc chín tháng, hoặc mười tháng,
nhưng lại xả bỏ để theo sắc phục trước kia, rồi lại bị nhiễm ô
bởi dục vọng, nhiễm dục, dính trước dục, bị dục trói chặt,
kiêu ngạo, chấp thủ, thâm nhập, sống hoan lạc trong sự hành
dục mà không thấy tai họa, không thấy xuất yếu. Bạch Thế Tôn,
con thấy ở đây chúng Tỳ-kheo đệ tử của Thế Tôn tự nguyện trọn
đời tu tập phạm hạnh, cho đến ức số. Ngoài đây ra con không
thấy ở đâu có phạm hạnh thanh tịnh như vậy, như mái nhà của
Thế Tôn. Đó là sự loại suy về pháp của con đối với Thế Tôn. Do
đó con nghĩ rằng, ‘Pháp của Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế
Tôn thật là khéo thú hướng’.
-
“Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một Sa-môn Phạm chí thân thể
gầy còm tiều tụy, tướng mạo xấu xí, thân nổi vẩy trắng
[09] không ai muốn nhìn. Con tự nghĩ rằng, ‘Các Tôn giả
này vì sao thân thể lại gầy còm, tiều tụy, tướng mạo xấu xí,
thân nổi vẩy trắng, không ai muốn nhìn. Các Tôn giả này ắt
không tu phạm hạnh, hoặc vì bệnh hoạn hay lén lút làm việc xấu
xa, cho nên các Tôn giả này thân hình gầy còm, tiều tụy, hình
sắc xấu xa, mình nổi vẩy trắng không ai muốn nhìn’. Con đến
hỏi họ, ‘Các Tôn giả vì sao thân hình tiều tụy gầy còm, tướng
mạo xấu xí, mình nổi vẩy trắng, không ai muốn nhìn? Có phải
các Tôn giả không thích tu hành phạm hạnh chăng? Hoặc vì bệnh
hoạn hay lén lút làm việc xấu xa, cho nên các Tôn giả thân thể
gầy còm tiều tụy?’ Những vị ấy đáp, ‘Đại vương, đây là bệnh
trắng! Đại vương, đây là bệnh trắng
[10]’.
-
“Bạch Thế Tôn, con thấy chúng Tỳ-kheo đệ tử của Thế Tôn, sống
hân hoan đoan chánh, sắc mặt vui tươi, hình thể tịnh khiết, vô
vi vô cầu
[11]sống đời tịnh hạnh, ăn uống như loài nai rừng
[12], tự mình trọn đời tu hành phạm hạnh. Thấy vậy, con
nghĩ rằng, ‘Các Tôn giả này vì sao được hân hoan, đoan chánh,
sắc mặt vui tươi hình thể tịnh, khiết, vô vi, vô cầu, sống đời
tịnh hạnh, ăn uống như loài nai rừng? Tự mình trọn đời tu hành
phạm hạnh? Các Tôn giả hoặc đã đạt đến ly dục, hoặc chứng đắc
tăng thượng tâm, đối với hiện pháp lạc trụ
[13]chứng đạt dễ dàng không khó. Cho nên các Tôn giả này
mới được hân hoan, đoan chánh, sắc mặt vui tươi, hình thể
tịnh, khiết, vô vi, vô cầu, sống đời tịnh hạnh, ăn uống như
loài nai rằng, tự mình trọn đời tu hành phạm hạnh. Nếu sống
trong dục lạc mà được hân hoan, đoan chánh, thì chính ta phải
được đời sống hân hoan đoan chánh ấy. Vì sao? Vì ta hưởng thụ
năm thứ diệu dục, một cách dễ dàng không khó. Nhưng các Tôn
giả này đạt đến sự ly dục, chứng đắc tăng thượng tâm, đối với
hiện pháp lạc trú thành tựu dễ dàng không khó. Vì vậy cho nên
các Tôn giả này sống hân hoan, đoan chánh, sắc mặt vui tươi,
hình thể tịnh khiết, vô vi vô cầu, sống đời tịnh hạnh, ăn uống
như loài nai rừng, tự mình trọn đời tu hành phạm hạnh. Đó là
sự loại suy về pháp của con đối với Thế Tôn, do đó con nghĩ
rằng, ‘Pháp được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác
giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là
khéo thú hướng’.
-
“Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một Sa-môn Phạm chí thông
minh trí tuệ, tự xưng mình thông minh trí tuệ, bác văn quyết
định, thuộc làu các kinh, chế phục cường dịch, đàm luận thông
suốt, danh tiếng đồn khắp, mọi người ai cũng đều nghe biết, đi
đến nơi nào thảy đều đả phá tông chủ của người mà tự lập luận
điểm của mình, và nói rằng, ‘Chúng ta hãy đến chỗ Sa-môn
Cù-đàm, mà hỏi ông những điều như vầy, như vầy. Nếu ông trả
lời được như thế này, thì ta vặn hỏi thế kia. Nếu ông không
trả lời được thì ta cũng vặn hỏi rồi bỏ đi’. Họ nghe Thế Tôn
du hóa tại làng nọ, vị này liền tìm đến, nhưng khi gặp Phật
thì lại chẳng dám hỏi lời nào huống nữa là vấn nạn. Đó là sự
loại suy về pháp của con đối với Thế Tôn. Do đó con nghĩ rằng,
‘Pháp được Như Lai Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác giảng dạy
thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú
hướng’.
-
“Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một Sa-môn Phạm chí, thông
minh trí tuệ, tự xưng là thông minh trí tuệ, bác văn quyết
định, thuộc làu các kinh, chế phục cường địch, đàm luận thông
suốt, danh tiếng đồn khắp, mọi người đều nghe biết, đi đến chỗ
nào thảy đều đả phá tông chỉ người khác mà tự lập luận điểm
của mình. Và nói rằng, ‘Chúng ta hãy đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm
để hỏi ông những điều như vầy như vầy. Nếu ông trả lời được
thế này, ta lại vặn hỏi ông cách kia. Nếu ông trả lời không
được, ta cũng vặn hỏi rồi bỏ đi’. Họ nghe Thế Tôn du hóa tại
làng nọ, vị này liền đến tìm hỏi, được Thế Tôn trả lời rõ
ràng. Nghe xong Sa-môn Phạm chí này vui mừng hớn hở, cúi đầu
lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui. Đó là sự loại
suy về pháp của con đối với Thế Tôn. Do đó, con nghĩ rằng,
‘Pháp được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác giảng dạy
thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú
hướng’.
-
“Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một Sa-môn Phạm chí khác,
thông minh trí tuệ, tự xưng là thông minh trí tuệ, bác văn
quyết định, thuộc làu các kinh, chế phục cường địch, đàm luận
thông suốt, danh tiếng đồn khắp, mọi người đều nghe biết, đi
đến nơi nào thảy đều đả phá chủ trương tông chỉ của người mà
tự lập luận điểm của mình và nói rằng, ‘Chúng ta hãy đi đến
chỗ Sa-môn Cù-đàm để hỏi ông những điều như vầy, như vầy. Nếu
ông trả lời được như thế này, ta lại vặn hỏi ông cách khác.
Nếu ông không trả lời được, ta cũng vặn hỏi ông rồi bỏ đi’. Họ
nghe Thế Tôn du hóa tại làng nọ, vị này liền đến hỏi, được Thế
Tôn trả lời rõ ràng. Nghe xong, Sa-môn Phạm chí này liền vui
mừng phấn khởi, liền tự quy y Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo;
được Thế Tôn thọ nhận làm Ưu-bà-tắc; trọn đời quy y cho đến
tận mạng. Đó là sự loại suy về pháp của con đối với Thế Tôn.
Do đó, con nghĩ rằng, ‘Pháp được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác giảng dạy thật là toàn thiện; chúng đệ tử của
Thế Tôn thật là khéo thú hướng’.
-
“Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy một Sa-môn Phạm chí khác
thông minh trí tuệ, tự xưng là thông minh trí tuệ, bác văn
quyết định, thuộc làu các kinh, chế phục được cường địch, đàm
luận thông suốt, danh tiếng đồn khắp mọi người đều nghe biết,
đi đến nơi nào thảy đều đả phá chủ trương tông chỉ của người
mà lập luận điểm của mình mà nói rằng, ”Chúng ta hãy đi đến
chỗ Sa-môn Cù-đàm để hỏi ông những điều như vầy, như vầy. Nếu
ông trả lời được như thế này, ta lại vặn hỏi ông cách kia. Nếu
ông trả lời không được, ta cũng vặn hỏi ông rồi bỏ đi’. Họ
nghe Thế Tôn du hóa tại làng nọ, vị này liền tìm đến hỏi, được
Thế Tôn trả lời rõ ràng. Nghe xong, Sa-môn Phạm chí này vui
mừng phấn khởi bèn theo Thế Tôn cầu xin xuất gia thọ giới Cụ
túc, đắc pháp Tỳ-kheo. Thế Tôn bèn độ cho và truyền trao giới
Cụ túc, đắc pháp Tỳ-kheo. Khi các Tôn giả ấy xuất gia học đạo,
thọ giới Cụ túc, đắc pháp Tỳ-kheo rồi, sống cô độc một nơi xa
vắng, tâm không buông lung, tinh cần tu tập. Vị ấy sau khi
sống cô độc tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tinh cần
tu tập, đạt đến mục đích mà một thiện nam tử cạo bỏ râu tóc,
mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình,
xuất gia học đạo, là duy chỉ để thành tựu vô thượng phạm hạnh,
ngay trong đời hiện tại mà tự tri, tự giác, tự thân chứng ngộ
an trú, biết một cách như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
Khi các Tôn giả ấy biết pháp rồi, cho đến chứng đắc A-la-hán;
chứng đắc A-la-hán rồi, bèn nói rằng, ‘Này chư Hiền, trước kia
tôi gần bị suy vong gần bị hủy diệt. Vì sao vậy? Trước kia tôi
không phải là Sa-môn tự xưng là Sa-môn; không phải phạm hạnh
tự xưng phạm hạnh, không phải A-la-hán tự xưng A-la-hán. Bấy
giờ chúng ta mới thực sự là Sa-môn, thực sự là phạm hạnh, thực
sự là A-la-hán’. Đó là sự loại suy về pháp của con đối với Thế
Tôn. Do đó, con nghĩ rằng, ‘Pháp được Như Lai, Bậc Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ
tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng’.
-
“Lại nữa, bạch Thế Tôn, con tự do trong quốc thổ của mình,
muốn giết kẻ không lỗi lầm thì ra lệnh giết, muốn giết kẻ có
lỗi lầm ra lệnh giết; nhưng khi con ngồi trên đô tọa, con vẫn
không được tự do mà nói như vầy, ‘Các khanh hãy giữ im. Không
ai hỏi việc nơi các khanh, mà chính là hỏi việc nơi ta. Các
khanh không thể quyết đoán việc này, chỉ có ta mới có thể
quyết đoán việc này’. Nhưng ở trong đó vẫn có người bàn cãi
việc khác, không đợi người trước nói xong. Con đã nhiều lần
thấy Thế Tôn thuyết pháp với đại chúng vây quanh. Bấy giờ có
một người ngủ gật mà ngáy, thấy gây tiếng động, một người khác
bèn nói rằng, ‘Ngài chớ có ngáy gây tiếng động. Ngài không
muốn nghe pháp được Thế Tôn nói như cam lồ chăng?’ Người ấy
nghe rồi tức thì im lặng. Con nghĩ rằng, ‘Như Lai, Bậc Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, là Bậc Điều Ngự đại chúng. Thật kỳ
diệu thay! Thật hy hữu thay! Vì sao vậy? Vì Ngài không cần
dùng dao, dùng gậy, nhưng tất cả đều đúng như pháp mà được an
ổn khoái lạc’. Đó là sự loại suy về pháp của con đối với Thế
Tôn. Do đó con nghĩ rằng, ‘Pháp được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của
Thế Tôn thật là khéo thú hướng’.
-
“Lại nữa, bạch Thế Tôn, hai viên thần tá Tiên Dư và Túc Cựu
[14] được con ban phát tiền tài, và con thường khen ngợi
họ; đời sống họ do nơi con. Nhưng con không thể khiến cho hai
vị thần tá này hạ ý cung kính, cúng dường, phụng sự con như họ
hạ ý cung kính tôn trọng cúng dường phụng sự Thế Tôn. Đó là sự
loại suy về pháp của con đối với Thế Tôn. Do đó con nghĩ rằng,
‘Pháp được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác giảng dạy
thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú
hướng.’
-
“Lại nữa, bạch Thế Tôn, thuở xưa trong lúc xuất chinh, ngủ đêm
trong một ngôi nhà nhỏ, con muốn thử hai viên thần tá Tiên Dư
và Túc Cựu khi ngủ quay đầu về phía nào, quay về phía con hay
quay về phía Thế Tôn ở. Rồi hai vị thần tá Tiên Dư và Túc Cựu,
vào lúc đầu hôm, ngồi kiết già im lặng tĩnh tọa. Đến nửa hôm
nọ nằm ngủ, đầu hướng về phía mà họ biết Thế Tôn đang ở, còn
chân thì quay về phía con. Thấy thế con suy nghĩ, ‘Hai viên
thần tá Tiên Dư và Túc Cựu này không quan tâm đến sự thù thắng
trước mắt, cho nên họ không hạ ý cung kính tôn trọng cúng
dường phụng sự ta như hạ ý cung kính tôn trọng, cúng dường
phụng sự Thế Tôn’. Đó là sự loại suy về pháp của con đối với
Thế Tôn. Do đó con nghĩ rằng, ‘Pháp được Như Lai, Bậc Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ
tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng.’
-
“Lại nữa, bạch Thế Tôn, con là quốc vương, Thế Tôn cũng là
Pháp vương. Con thuộc dòng Sát-lợi, Thế Tôn cũng thuộc dòng
Sát-lợi. Con là người nước Câu-tát-la, Thế Tôn cũng người nước
Câu-tát-la. Con đã tám mươi tuổi, Thế Tôn cũng tám mươi tuổi.
Con có thể trọn đời hạ ý cung kính, tôn trọng, cúng dường
phụng sự Thế Tôn.
-
“Bạch Thế Tôn, hôm nay có nhiều công việc, con xin phép lui
về.”
-
Đức Thế Tôn bảo:
-
“Đại vương, mong Đại vương tự biết đúng thời.”
-
Rồi thì Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la, sau khi nghe những lời
Phật dạy, khéo léo ghi nhớ, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu
đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra về.
-
Lúc đó ngài A-nan cầm quạt đứng hầu sau Phật. Thế Tôn bảo:
-
“A-nan, nếu có Tỳ-kheo nào đang sống ở rừng Di-lũ-ly này, hãy
tập họp tất cả về giảng đường.”
-
Rồi thì, Tôn giả A-nan sau khi vâng lời Phật dạy, tập họp tất
cả Tỳ-kheo đang sống trong rừng Di-lũ-ly tất cả cùng vào giảng
đường. Rồi trở lại bạch Phật:
-
“Bạch Thế Tôn, những Tỳ-kheo tại rừng Di-lũ-ly này, tất cả đều
đã tụ tập tại giảng đường này rồi, mong Thế Tôn tự biết thời.”
-
Bấy giờ Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đi đến giảng đường. Đến nơi
Ngài trải chỗ ngồi trước đại chúng và nói:
-
“Này các Tỳ-kheo, hôm nay Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la đã
đứng trước Ta nói kinh ‘Pháp Trang Nghiêm’
[15] xong, liền đứng dậy cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ta,
nhiễu quanh ba vòng rồi lui về. Này các Tỳ-kheo, các ngươi nên
thọ trì kinh Pháp Trang Nghiêm đó, hãy khéo léo tụng đọc. Vì
sao vậy? Này các Tỳ-kheo, vì kinh Pháp Trang Nghiêm này là như
pháp, là như nghĩa, là căn bản của phạm hạnh, dẫn đến trí tuệ,
dẫn đến giác ngộ, dẫn đến Niết-bàn. Nếu một thiện nam tử đã
chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học
đạo, hãy nên thọ trì, hãy khéo léo tụng tập kinh Pháp Trang
Nghiêm này.”
-
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
-
-ooOoo-
-
Chú thích:
-
[01]
Tương đương Pāli, M.89. Dhammacetiya-suttaṃ.
-
[02]
Di-lũ-ly 彌 婁 離. Pāli: Medaḷumpa.
-
[03]
Trường Tác 長 作. Pāli: Dīghakāryāṇa, viên đại tướng tổng chỉ
huy của vua Pasenadi.
-
[04]
Ấp danh thành 邑 名 成. Pāli: Naṅgaraka.
-
[05]
Câu-lũ-xá 拘 婁 舍, hay câu-lô-xá, số đo dài năm trăm cung, hay
khoảng cách tiếng rống của một con bò. Bản Pāli: ba yojana,
do-tuần.
-
[06]
Pháp tĩnh 法 靖 (bản Tống: 靜); Pāli: Dhammanvaya, tổng tướng của
pháp, loại cú của pháp, mục đích thứ tự của pháp. Đây chỉ sự
suy diễn dựa trên những chứng nghiệm thực tế.
-
[07] Pāli:
svākkhato bhagavato dhammo suppaṭipanno sāvakasaṅgho, Pháp
được Thế Tôn khéo thuyết, Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo thực
hành.
-
[08]
Đô tọa 都 坐. Pāli: atthakaraṇa, công đường, pháp đình, chỗ xử
kiện.
-
[09]
Bạch pháo 白 皰.
-
[10]
Bạch bệnh 白 病. Pāli: bandhukarogo, bệnh truyền nhiễm, (bệnh
hoàng đản hay hoàng đậu?).
-
[11]
Vô vi vô cầu 無 為 無 求. Pāli: appossukka pannaloma, thoải mái vô
tư.
-
[12]
Hộ tha thế, thực như lộc: paradavutte migabhūtena (...) sống
do sự hỗ trợ của người khác, (...) như loài nai.
-
[13]
Tăng thượng tâm, hiện pháp lạc trụ: chỉ cho sự chứng đắc bốn
tĩnh lự.
-
[14]
Tiên Dư, Túc Cựu 仙 餘 宿舊. Pāli: Isidatta, Purāṇa.
-
[15]
Pháp trang nghiêm 法 莊嚴. Pāli: dhammacetiya, linh miếu Pháp,
tháp thờ phụng Chánh pháp.
-
-
|