|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
(Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận)
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn -
USA
1991
- LỜI NÓI ĐẦU
-
- Lịch sử
truyền bá tư tưởng Phật Giáo thường được chia làm ba thời kỳ:
- 1) Thời Nguyên Thủy:
Ðức Phật Thích Ca còn tại thế, Ngài cùng các đệ tử đi truyền Ðạo
rộng rãi khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn, núi rừng đồng
ruộng, đem Pháp mầu giáo hóa chúng sinh; giáo lý của Ngài chỉ có
một vị là đem lại sự giác ngộ và giải thoát cho những người nào
nghe theo và thực hành. Ngài rất hoạt động, đi vào cuộc đời để
cứu độ đời.
- 2) Thời các
bộ phái: Thời kỳ này còn được gọi là Phật Giáo Tiểu Thừa hoặc
Nam Tông. Ðức Phật đã nhập Niết Bàn, các đại đệ tử của Ngài cũng
lần lượt từ trần, tinh thần nhập thế cứu độ chúng sinh không còn
được thi hành tích cực, mà các vị tu sĩ Phật Giáo chỉ đề cao
công đức xuất gia, ẩn tu trong núi rừng, tìm đường giải thoát
cho chính mình mà thôi. Phật Giáo chia ra làm nhiều bộ phái, mỗi
bộ phái giảng giải lời Phật hoặc các giới luật theo ý của vị
Trưởng Lão cầm đầu bộ phái, phát sinh những ý kiến bất đồng. Chí
hướng của người tu theo Phật Giáo của thời kỳ này là tự lợi, tự
giác, xa lánh cuộc đời tội lỗi xấu xa, tìm sự giải thoát cho
riêng mình, mục đích cao tột là đạt quả vị A La Hán, hưởng thú
vui Niết Bàn, ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Các Phật Tử tại gia
được dạy bảo nên cầu phước báo cõi Trời và cõi người, bằng cách
cúng dường chư Tăng, làm lành lánh dữ, mà không có ý mong cầu
xuất thế, đạt tới những gì cao siêu huyền diệu.
- 3) Thời phát
triển của Ðại Thừa, còn gọi là Phật Giáo Bắc Tông: Tinh thần
hoạt động của Phật Giáo Nguyên Thủy được phục hưng, đề cao và
vận động phong trào học Phật, tu Phật, khuyến khích cả hai giới
xuất gia và tại gia thực hành Bồ Tát Ðạo. Tư tưởng cấp tiến này
đem lại một luồng gió mới, chủ trương đem Phật Pháp vào thế
gian, tìm sự giác ngộ và giải thoát ở ngay cuộc đời này; người
xuất gia cũng như tại gia có bổn phận tự lợi rồi lợi tha, tự
giác rồi giác tha, vì tất cả chúng sinh đều có liên hệ mật thiết
với nhau, dính chùm với nhau, không thể tách rời ra được. Tất cả
chúng sinh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật, vậy
phải đem Ðạo vào đời, người tu hành không lìa đời mà tìm thấy
giác ngộ, còn chúng sinh đau khổ thì Bồ Tát còn phải ở đời để
tìm cách cứu độ, mà không được vui hưởng Niết Bàn riêng mình.
- Kinh Duy Ma
Cật được phát hiện và truyền bá rộng rãi trong thời kỳ chuyển
hướng tư tưởng từ thời kỳ các bộ phái sang thời kỳ phát triển
Ðại Thừa, chống tư tưởng yếm thế sợ vào đời dễ bị động tâm của
các Tỳ Kheo chỉ mong tự lợi tự giác, rút vào rừng sâu, mà Kinh
này chủ trương nhập thế, tích cực vào đời, ở đâu tu cũng được, ở
chùa, ở nhà, ở rừng, ở ruộng, nơi nào cũng là đạo tràng thanh
tịnh, miễn là TÂM THANH TỊNH thì quốc độ tịnh, hoàn cảnh nào tu
cũng được, giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, già trẻ, .... ai cũng
tu được, con đường giải thoát thênh thang rộng mở cho người có
chí muốn tu, con đường tu hạnh Bồ Tát lợi tha chung cho cả hai
giới xuất gia và tại gia, mà giới tại gia lại được tán thán hơn,
vì có nhiều gia duyên ràng buộc mà vẫn tu được. Kinh này chủ
trương chuyển Tâm chứ không chuyển Cảnh, Tâm tịnh thì cả thế
giới thanh tịnh. Có lẽ từ bộ Kinh này mà người Việt Nam có câu:
- Thứ nhất là
tu tại gia,
- Thứ nhì tu
chợ, thứ ba tu chùa
- Nhưng nói vậy
không phải là chống đối, khinh thị lối tu xuất gia, mà chỉ muốn
nhấn mạnh ở điểm là ở đâu tu cũng được, miễn là giữ tâm thanh
tịnh, không để hoàn cảnh chi phối, tâm an thì thế giới bình, khi
được giác ngộ và giải thoát thì ai cũng bằng nhau, giống nhau,
vì tất cả là một, Bất Nhị.
- Kinh Duy Ma
Cật được dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán, lưu truyền cho đến nay
còn ba bộ:
- 1) Bộ thứ
nhất được gọi là Phật Thuyết Duy Ma Cật Kinh, do Ngài Trí Khiêm
đời Ngô dịch.
- 2) Bộ thứ hai
được gọi là Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh hay Bất Khả Tư Nghị Giải
Thoát Kinh, do Ngài Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần dịch.
- 3) Bộ thứ ba
được gọi là Thuyết Vô Cấu Xứng Kinh, do Ngài Huyền Trang đời
Ðường dịch.
- Trong ba bản
dịch trên, bản của Ngài Cưu Ma La Thập được phổ cập hơn cả, vì
Ngài dịch rất sát nghĩa, văn chương trang trọng lưu loát sáng
sủa như ngọc lưu ly, mỗi chữ mỗi câu như thêu hoa dệt gấm; ngoài
giá trị của một pháp môn giải thoát siêu đẳng, bộ kinh này còn
là một tác phẩm văn chương nổi danh trong rừng văn học Phật
Giáo.
- Bản của Ngài
Cưu Ma La Thập được dịch nhiều lần sang chữ Việt, đáng lưu ý
nhất là bản dịch của Thượng Tọa THÍCH HUỆ HƯNG xuất bản năm 1951
và đã được tái bản nhiều lần.
- Nội dung Kinh này nói rõ cảnh
giới của Ðại Bồ Tát chứng nhập, hiển bày pháp môn Bất Nhị, phá
trừ mọi chấp trước: có, không, thường, đoạn,... mục đích giáo
hóa chúng sinh thoát khỏi triền phược khổ não, đồng hưởng an vui
giải thoát. Muốn vậy, điều kiện đặc biệt là Tâm phải thanh tịnh,
như trong Kinh nói: tùy Tâm thanh tịnh mà cõi Phật được thanh
tịnh.
- Nhân vật
chính trong Kinh này là một cư sĩ tại gia tên là VIMALAKIRTI
phiên âm là Duy Ma La Cật Lị Ðế, gọi tắt là Duy Ma Cật.
- Duy Ma La
nghĩa là Tịnh, Vô Cấu, trong sạch. Cật Lị Ðế nghĩa là danh tiếng
lừng lẫy. Người ta hoặc dùng phiên âm Duy Ma Cật, hoặc dùng tên
nghĩa Tịnh Danh hay Vô Cấu. Tịnh là sạch, không đóng bụi bẩn,
vắng lặng không lay động. Về phương diện vật chất, tịnh được ví
như ly nước trong sạch không có cặn, ánh sáng chiếu thông suốt
qua không bị ngăn ngại. Về phương diện tâm linh, Tịnh là vắng
lặng, an nhiên tự tại, tâm không vọng động không dấy khởi. Danh
là tên, là phần tâm linh của các chúng sinh (Danh là phần tinh
thần đối với Sắc là phần vật chất), là đức hạnh, đức tánh, công
hạnh, công đức.
- Hai chữ Tịnh
và Danh thường đi đôi với chữ Thanh, hợp thành chữ kép Thanh
Tịnh, Thanh Danh. Thanh Tịnh là trongsạch, không nhiễm ô, không
vọng động. Thanh Danh là tên sạch, không nhuốm bẩn, người có
Thanh Danh là người lương thiện lành tốt, đức hạnh trang nghiêm,
không phạm lỗi lầm nhơ bẩn, không làm tội ác thấp hèn, ai cũng
kính trọng.
- Danh hoặc phần Tâm linh chính là
chỉ cái Tâm vô hình, vô tướng, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm, bao trùm cả ba lần ngàn đại thiên Thế Giới. Từ Tâm này
phát sinh ra mọi sự mọi vật, và cũng chính là nơi cho mọi sự mọi
vật trở về nguồn gốc căn bản, đó là lý Chân Không Diệu Hữu.
- Cư sĩ Duy Ma Cật được đặt tên là
Tịnh Danh hoặc Vô Cấu, vì Ngài đã lau sạch bụi trần, hết nhiễm
ô. Ðúng lý ra thì dùng một chữ Tâm hay chữ Danh là đủ, không cần
thêm chữ Tịnh, vì đã là Chân Tâm thì bất cấu bất tịnh, nhưng ở
đây người dịch muốn phân biệt rõ ràng Chân Tâm với vọng tâm hay
vọng thức nên thêm chữ Tịnh đứng trước chữ Danh.
- Như vậy, tên
bộ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết có nghĩa đen là bộ Kinh ghi chép
những lời nói của Cư Sĩ Tịnh Danh, nhưng bao hàm nghĩa ẩn là bộ
Kinh nói về Chân Tâm thanh tịnh. Còn cái tên thứ hai Bất Khả Tư
Nghị Giải Thoát Kinh là bộ Kinh nói về pháp môn không thể nghĩ
bàn đưa đến chỗ giải thoát. Ðức Phật đã lấy cốt tủy và mục đích
của Kinh mà đặt tên.
- Kinh Duy Ma
Cật được xuất hiện vào thời kỳ nào?
- Theo sự phân
chia của Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư thì có năm thời kỳ thuyết
pháp của Ðức Phật:
- 1. Thời Hoa
Nghiêm dài 21 ngày: Ngay sau khi thành Ðạo, Ðức Phật Thích Ca
đem giáo lý tối thượng thừa ra giảng, chỉ có hàng Ðại Bồ Tát
hiểu được, còn hàng Thanh Văn, Duyên Giác (Nhị Thừa) sơ cơ không
hiểu gì cả.
- 2. Thời A
Hàm, dài 12 năm: Ðức Phật phải phương tiện giảng giáo lý từ thấp
lên cao, tạm chia Phật Thừa ra làm ba thừa để thích hợp với căn
cơ chúng sinh. Thời A Hàm thuộc Phật Giáo Tiểu Thừa, còn được
gọi là Nguyên Thủy hay Nam Tông.
- 3. Thời
Phương Ðẳng hay Phương Quảng, dài 8 năm: Ðức Phật chuyển giáo lý
TIểu Thừa bước sang Ðại Thừa. Kinh Duy Ma Cật thuộc thời này.
- 4. Thời Bát
Nhã, dài 22 năm: Ðức Phật phá mọi chấp trước để hiển lộ lý
KHÔNG, đề cao trí huệ sẵn có của các chúng sinh.
- 5. Thời Pháp
Hoa và Niết Bàn, dài 8 năm: Ðức Phật quy ba thừa về Nhất Thừa
hay Phật Thừa, bỏ phương tiện để đạt cứu cánh.
- Theo như trên
thì Kinh Duy Ma Cật thuộc thời Phương Ðẳng là giao thời giữa
Tiểu Thừa và Ðại Thừa, phá chấp các tướng trạng để bước sang
thời Bát Nhã. Bộ Kinh này thuyết minh rằng những lý thuyết,
phương pháp tu hành trước kia cho là đúng, là phải chỉ là những
phương tiện tạm dùng trong buổi sơ cơ, nay đã đến lúc phải bỏ
những điều ấy, phải lìa Tướng nhập Tánh, lìa Sự chứng Lý, lìa
tương đối Ngộ tuyệt đối, bỏ ngã chấp và pháp chấp mà tu Bồ Tát
Ðạo, quên mình vì chúng sinh, tự giác giác tha để tới giác hạnh
viên mãn, thấy tất cả là Một, tất cả đều liên hệ với nhau, trùng
trùng duyên khởi.
- Bộ Kinh Duy
Ma Cật cũng góp nhặt các đường lối tu hành khác nhau để quy về
một lối, trăm sông đổ vào một biển và hòa tan trong đó. Bộ Kinh
cũng gián tiếp trả lời những điểm công kích của ngoại đạo hoặc
các phe phái khác nhau trong Phật Giáo, để đề cao Nhất Thừa Phật
Ðạo, tùng Tướng nhập Tánh, Lý Sự viên dung.
- Kinh này do
Ðức Phật Thích Ca nói ở Thành Tỳ Xá Li, phiên âm chữ Phạn
Veisali, nghĩa là Thành Quảng Nghiêm, do Ngài A Nan được nghe và
nói lại. Kinh Duy Ma Cật thuộc loại quyền giáo, nghĩa là Ðức
Phật dùng những thí dụ (parables) để diễn tả Chân Lý cao siêu
tuyệt vời mà những danh từ, ngôn ngữ, tâm duyên không thể dùng
để đạt tới được.
- Thí dụ: Muốn
tả con cọp cho một người chưa thấy cọp bao giờ, chúng ta liền
chỉ con mèo, nói là con cọp giống con mèo, nhưng lớn và dữ tợn
hơn nhiều, mạnh mẽ hung bạo có thể ăn thịt người. Nhưng nếu
người đó chấp con mèo là con cọp thì hoàn toàn sai, giống như
người chấp ngón tay là mặt trăng. Thí dụ khác: Muốn tả máy bay
trực thăng, chúng ta chỉ con chuồn chuồn, nói là máy bay trực
thăng có hình giống con chuồn chuồn, nhưng to lớn hơn nhiều, có
thể chuyên chở nhiều người. Ðây là mượn một vật cụ thể để diễn
tả một vật hữu hình hữu tướng mà còn khó khăn mới mường tượng ra
được, nếu mượn một vật hữu hình đễ diễn tả một một caí gì vô
hình, vô tướng, siêu việt, thì thật muôn ngàn lần khó hơn.
- Kinh Duy Ma
Cật là một bộ kinh thuộc Ðại Thừa do Ðức Phật nói cho hàng Bồ
Tát và các đệ tử đã phát Bồ Ðề Tâm nghe, tả rõ cảnh giới của các
Ðại Bồ Tát chứng nhập, vậy là nói về một cái gì huyền diệu nhiệm
mầu cao tột mà không thể dùng tri thức phàm phu hiểu được. Muốn
tạm hiểu vài ba phần, chúng ta cần phải cố gắng vươn lên cao, bỏ
qua những hình tướng bề ngoài để thấy cái Thể bên trong, bỏ
Tướng để nhập Tánh, bỏ cái vọng thức suy nghĩ phân biệt của phàm
phu để nhập vào Ðại Trí Huệ (Ma Ha Bát Nhã).
- Vì Kinh này
thuộc quyền giáo nên một câu hỏi thường đặt ra: Cư Sĩ Duy Ma Cật
có phải là một nhân vật lịch sử có thật không?
- Chúng ta đã
biết Ðức Phật Thích Ca và các đệ tử như Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên, A Nan, Ca Diếp, Kiều Trần Như,.... là những nhân vật lịch
sử có thật, bằng xương bằng thịt, sống ở Ấn Ðộ vào một niên đại
lịch sử được ghi chép rõ rệt, thuộc dòng họ nào, ở địa phương
nào, đời sống ra sao từ sinh đến chết, có để lại những di vật
được cất giữ cẩn thận. Còn Ðức Phật A Di Ðà, Ðức Phật Dược Sư,
chư Bồ Tát Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Ðịa
Tạng.... không phải là những nhân vật lịch sử bằng xương bằng
thịt: sở dĩ chúng ta biết được các Ngài là do Ðức Phật Thích Ca
nói cho biết. Chúng ta tin Phật không nói sai, nhưng có lúc Ngài
nói thật, có lúc nói quyền, vậy đừng lấy quyền làm thật, đừng
chấp con mèo là con cọp, đừng chấp con chuồn chuồn là máy bay
trực thăng mà chúng ta còn suy ngẫm để tìm ra sự thật qua các
thí dụ cũng giống y như các câu chuyện ngụ ngôn.
- Dĩ nhiên là
chư Phật, chư Ðại Bồ Tát thường dùng mọi thân hình thị hiện
trong thế gian để độ chúng sinh mà không ai biết đó là Phật hay
Bồ Tát, vì các Ngài dùng một thân tầm thường như mọi chúng sinh
khác để dạy dỗ hướng dẫn tu hành, chứ không hiện thần thông bay
trên trời, chiếu hào quang rực rỡ. Khi rời bỏ xác phàm, các Ngài
để lại một bài kệ, mọi người mới biết đó là Phật hoặc Bồ Tát
giáng trần thị hiện cứu độ chúng sinh.
- Chư Phật, chư
Bồ Tát, chư Thánh Hiền đã có hai loại (lịch sử có thật hoặc do
Ðức Thích Ca nói cho biết) thì các chúngsinh tới nghe Phật nói
Kinh Duy Ma Cật cũng có hai loại:
- 1) Thính
chúng hiển hiện là các đệ tử sinh thời với Ðức Phật Thích Ca,
như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan, Ca Diếp, Kiều Trần
Như,... cùng các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ,
đại chúng ...
- 2) Thính
chúng ẩn mặt là các Bồ Tát Văn Thù, Di Lặc, Quán Thế Âm, Ðại Thế
Chí... chư Thiên Long Bát Bộ, Thiên Thần Hộ Pháp, Ðịa Thần, Quỷ
Thần, Thụ Thần,... từ các cõi khác đến nghe Pháp.
- Theo lời Kinh
thì thưở ấy trong Thành Tỳ Xá Li có ông trưởng giả tên là Duy Ma
Cật tu hành chân chánh, sâu trồng cội lành, được vô sinh nhẫn,
biện tài vô ngại, du hí thần thông... được chư Phật khen ngợi,
Trời người kính trọng. Vì muốn độ người nên ông dùng phương tiện
khéo thị hiện làm thân trưởng giả, có của nhiều để bố thí cho
dân nghèo, tu lục độ để nhiếp độ chúng sinh, tuy là cư sĩ mà giữ
giới thanh tịnh của Sa Môn, thị hiện có vợ con nhưng thường tu
phạm hạnh, dạy bảo các hàng Trời người làm cho tất cả chúng sinh
đều được lợi ích.
- Ở phẩm thứ 10 gọi là phẩm Phật
Hương Tích, Cư Sĩ Duy Ma Cật sai một vị Hóa Bồ Tát sang nước
Chúng Hương, xa hơn 42 Hằng Hà Sa cõi Phật, có Phật hiệu Hương
Tích, để xin cơm thơm mang về cho đại chúng ăn, chỉ có một bát
cơm mà tất cả chúng hội trăm ngàn người ăn không hết.
- Ở phẩm thứ 12
gọi là phẩm thấy Phật A Súc, Ðức Thích Ca bảo ông Xá Lợi Phất:
"Có cõi nước tên là Diệu Hỷ, Phật hiệu Vô Ðộng, ông Duy Ma Cật
này ở nước đó chết rồi sinh nơi đây...". Cư Sĩ Duy Ma Cật không
rời chỗ ngồi, nhập chánh định, hiện sức thần thông, lấy tay bên
hữu nắm lấy cõi nước Diệu Hỷ, gồm cả Phật Vô Ðộng, chư Bồ Tát
Thanh Văn, núi sông, biển, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, Trời,
người, cây cối... đem về cõi Ta Bà này cho mọi người thấy. Cõi
nước Diệu Hỷ dù vào cõi Ta Bà này cũng không chật hẹp, vẫn y
nguyên như trước.
- Ðó là hai
đoạn kinh nói về oai lực siêu phàm của Cư Sĩ Duy Ma Cật. Vậy Duy
Ma Cật có thật hay không? Có hai ý kiến:
- 1) Cư Sĩ Duy
Ma Cật có thật, là một vị trưởng giả ở thành Tỳ Xá Li bên Ấn Ðộ,
có gia đình vợ con, sống cùng thời với Ðức Phật Thích Ca; ông
dùng phương tiện hiện thân có bệnh để mọi người tới thăm, ông
nhân dịp đó nói Pháp để độ chúng sinh. Ông Duy Ma Cật chính là
một vị Ðại Bồ Tát đã chứng Thánh quả, nhưng khéo hiện thân một
cư sĩ, làm mọi việc như các cư sĩ khác, nhưng với Tâm thanh
tịnh, không còn nhiễm ô ái dục chấp trước, tận diệt tham sân si,
nên tuy sống ở thế gian mà không gây nghiệp ác, ông đã chứng
minh rằng không cứ phải xuất gia mới đắc Ðạo, mà một người cư sĩ
tại gia tu hành chân chánh thì cũng được giác ngộ và giải thoát.
Sở dĩ Bồ Tát Duy Ma Cật n làm trưởng giả chính là đề cao vi Phật
Tử tại gia, còn sống lẫn lộn trong bụi trần mà không nhiễm ô.
Ông phải là một người bình thường, bằng xương bằng thịt, cho mọi
người trông thấy, gặp gỡ nói chuyện, thấy oai lực thần thông của
ông khiến mọi người kính phục tin theo. Ông đã có dịp gặp các
đại đệ tử của Phật là Xá Lợi Phất, Mục Ken Liên, A Nan... gặp
các Bồ Tát Di Lặc, Quang Nghiêm, Trì Thế, Văn Thù... Ðức Phật
Thích Ca nói rõ như vậy thì tất nhiên là đúng, Cư Sĩ Duy Ma Cật
có thật.
- 2) Cư Sĩ Duy
Ma Cật là một nhân vật tượng trưng do Ðức Phật đưa ra để diễn tả
Chân Lý cao siêu tuyệt vời không hai, đó là Pháp Môn Bất Nhị, là
Chân Tâm, Phật Tánh. Ai có được Tâm thanh tịnh thì thấy thế giới
thanh tịnh, thấy được nước Phật (Phật Quốc) và được giác ngộ và
giải thoát. Phật nói Kinh Duy Ma Cật là muốn đưa ra một phương
pháp tu hành rốt ráo, phá trừ chấp có chấp không, tạm dùng
truyện ông Duy Ma Cật như câu truyện ngụ ngôn để mọi người dễ
hiểu, dễ nhớ. Hơn nữa, các nhân vật đã gặp Cư Sĩ Duy Ma Cật thì
một phần là nhân vật lịch sử, một phần là nhân vật ẩn mặt siêu
hìnhthì cũng khó mà cho rằng ông Duy Ma Cật là có thật. Lại nữa,
Cư Sĩ Duy Ma Cật có thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn, chư
Phật khen ngợi, chư thiên n đều cung kính theo học, nghe lời dạy
bảo, thì trong lịch sử loài người chưa thấy ai được như vậy,
ngoài Ðức Phật Thích Ca.
- Ðây là một
vấn đề siêu hình không thể dùng bằng chứng rõ ràng để minh xác,
tùy theo căn cơ của mỗi người mà tin hay không tin, nhưng điều
quan trọng là phải học hiểu, thâm nhập Lý kinh, rồi thực hành
các đức tánh được chỉ dạy trong quyển kinh, lìa chấp có chấp
không để thấy được Chân Lý, trở về Bản Tánh Không Hai, được giác
ngộ và giải thoát. Cũng vì có diệu dụng siêu việt như vậy nên
Kinh này còn được gọi là Pháp Môn Giải Thoát Không Thể Nghĩ Bàn,
đây là diệu dụng của Kinh đem ra đặt tên.
- Ðã không thể
nghĩ bàn thì xin quý vị đừng bàn suông, cãi vã mất thời giờ vô
ích về việc Cư Sĩ Duy Ma Cật có thật hay không, mà hãy tinh tấn
tu học, suy ngẫm lý ẩn, thực hành những lời dạy trong Kinh, vượt
qua ngôn ngữ để thâm nhập Bản Thể Chân Như, biết mọi sự mọi vật
là giả huyễn, là mộng ảo mà vẫn kiên trì thực hành Bồ Tát Ðạo,
tự giác giác tha, tự lợi lợi tha, giữ Tâm thanh tịnh thì quốc độ
thanh tịnh, tới chỗ Bất Nhị thì chắc chắn sẽ biết Cư Sĩ Duy Ma
Cật là nhân vật lịch sử hay tượng trưng. Ðọc Kinh cầu lý, y
nghĩa bất y ngữ, có bỏ qua văn tự mới đạt lý, chứng tri, nhưng
tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, người đã biết, đã tu chứng
thì không chịu nói (vì nói không được), còn phàm phu thì nói rất
nhiều nhưng thật ra lại chẳng hiểu biết thấu đáo.
- Trong khi chờ
đợi vấn đề được giải quyết thỏa đáng, kính mời quý vị hãy mở
quyển Kinh Duy Ma Cật ra để cùng học. Quý vị cần có quyển Kinh
Duy Ma Cật do Thượng Tọa Thích Huệ Hưng dịch ra tiếng Việt để
đọc trước và dò theo quyển sách này thì mới đầy đủ Sự và Lý, một
bên là Kinh, một bên là sách luận giải thâm ý huyền nghĩa của
Kinh.
- --o0o--
|
|