|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
(Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận)
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn -
USA
1991
- 05- PHẨM VĂN
THÙ SƯ LỢI
-
-
Lúc bấy giờ, Phật bảo Ngài Văn Thù Sư
Lợi đi thăm bệnh. Ngài bạch: “Bực Thượng Nhân kia khó bề đối đáp
vì đã thâm đạt Thật Tướng, khéo nói pháp mầu, trí tuệ vô ngại,
biện tài thông suốt. Tuy thế, con xin vâng lời Phật đến thăm
bệnh ông.”
-
Văn Thù Sư Lợi, phiên âm chữ Phạn
Manjusri, dịch nghĩa là Diệu Ðức đầy đủ ba đức lớn: Tín, Hạnh,
Trí, thường được gọi là Ðại Trí Văn Thù vì Ngài đã chứng được
thật trí, liễu ngộ Phật Tánh, là bậc Thượng Thủ trong hàng Bồ
Tát. Tất cả các đại đệ tử và Bồ Tát không dám tới thăm bệnh Cư
Sĩ Duy Ma Cật vì ông đã thâm nhập kho tàng bí mật của chư Phật
tượng trưng cho Căn Bản Trí hoặc Vô Sư Trí, Ðức Di Lặc chuyên về
Duy Thức cùng các vị khác không đủ trí huệ để đối đáp, chỉ có
Ngài Văn Thù Sư Lợi đã chứng Hậu Ðắc Trí hoặc Hữu Sư Trí mới
kham lãnh nhiệm vụ đi thăm bệnh, mới đủ tài đối đáp với ông Duy
Ma Cật.
-
Ðây là cuộc đối thoại đấu lý cao siêu
tuyệt vời giữa hai vị chứng ngộ Phật Tánh, chuyển Thức thành
Trí, rời tướng nhập Tánh, nên các Bồ Tát, Thanh Văn đệ tử, Trời
người rất đông cung kính đi theo Ngài Văn Thù vào thành Tỳ Xá
Li, đến nhà Cư Sĩ Duy Ma Cật. Vị này biết được liền dùng sức
thần thông làm cho trong nhà trống rỗng không có đồ đạc gì,
không có thị giả hầu hạ, chỉ để một cái giường ông nằm. Cư sĩ
lên liếng chào khách: “Quý hóa lắm, Ngài Văn Thù tới thăm bệnh.
Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy.” Bồ Tát Văn
Thù đáp: “Phải đấy, Cư Sĩ . Nếu đã đến tức là không đến, nếu đã
đi tức là không đi.”
-
Phẩm này nói về bệnh của thân, nhưng
thâm ý là muốn dạy chúng sinh điều trị bệnh của tâm, điều phục
tâm. Dẹp bỏ các đồ đạc không có người hầu hạ, chỉ còn mộl cái
giường, là ý muốn nói dẹp hết các phiền não, các tư tưởng chấp
trước, cho đến các niệm thiện (thị giả) cũng không giữ, chỉ còn
lại Tâm thanh tịnh mà thôi. Nếu còn phân biệt thiện ác là chưa
được Nhất Tâm. Vừa gặp mặt nhau, sau câu chào thường lệ, Cư Sĩ
Duy Ma Cật đã mời quý khách nếm ngay Pháp vị: Tướng thì không mà
Tánh thì thật, thân người tuy không thật mà vẫn có tới lui đi
đến, con mắt tuy giả huyễn mà vẫn trông vẫn thấy.
-
Ðứng về Pháp Tánh hay Thật Tướng thì
tất cả là Không, Bồ Tát biết là giả huyễn, nhưng chúng sinh thấy
là có. Ðoạn này giống Kinh Kim Cang phá chấp các tướng trạng bên
ngoài mà chỉ thẳng Thể Tánh bên trong, tuy Tánh là Không nhưng
thân tướng vẫn có đến đi tới lui, mắt tuy vô ngã nhưng vẫn trông
thấy. Ðứng về tướng thì có thân người đi từ chỗ này đến chỗ
khác, có mắt thấy mọi sự vật, nhưng đứng về Tánh thì tất cả quy
về Một, chẳng có không gian rộng lớn mà cũng chẳng có thời gian
lâu dài, Kinh Hoa Nghiêm nói: Nhất tức nhất thiết, nhất thiết
tức nhất. Một trong mười tôn hiệu của Ðức Phật là Như Lai, do
câu Vô Sở Tùng Lai Nhi Vô Sở Khứ, nghĩa là không từ đâu mà lại,
không đi tới chỗ nào, chẳng đi chẳng lại thì gọi là Như Lai.
-
Quốc Sư Ðại Ðăng nói với Nhật Hoàng
Hậu Ðề Hồ: “Ta xa nhau từ vô lượng kiếp mà vẫn chưa hề rời nhau
chốc lát. Ta đối mặt nhau suốt ngày mà chưa hề gặp nhau lần
nào.” Giáo lý nhà Phật trình bày trong Kinh Duy Ma Cật có nhiều
chỗ tưởng là phi lý nhưng đó chính là vấn đề vạn thù sai biệt
nhưng vẫn đồng nhất thể, Phật Giáo dùng giáo lý vô niệm vô tâm
Bát Nhã để nghĩ tới cái không nghĩ được, để phân biệt cái không
phân biệt được, đi tới sự thăng hoa tột cùng là Ngộ (Satori), đó
là tinh thần vô phân biệt, không chia cắt thời gian và không
gian, mà chỉ thấy tất cả mọi sự mọi vật dung thông trong một
điểm duy nhất gọi là Ðương Xứ. Cần vượt qua các hàng rào của tri
thức, các quan niệm hẹp hòi để vươn lên tới Trí Huệ Bát Nhã vô
cùng tận, lúc đó thì núi chẳng phải là núi nữa, nước chẳng phải
là nước nữa, mà núi vẫn là núi, nước vẫn là nước, Thiền Sư Bách
Trượng đã thấy được như vậy. Ðừng chấp vào danh từ ngôn ngữ là
các ước lệ do tri thức tạo nên mà do quán sát mọi vấn đề trên
một bình diện cao rộng hơn, siêu việt hơn, thân chứng đến chỗ
không còn lời nói mà chỉ có cành hoa sen Phật đưa lên, Ngài Ca
Diếp mỉm cười thông cảm, thế là xong.
-
Tướng không đến mà đến: đứng về Tánh
thì thân người không thật có, là giả huyễn, nhưng đứng về Tướng
thì vẫn có thân người tới lui. Ðây là phá ngã chấp, đề cao Ngã
Không. Tướng không thấy mà thấy: đứng về Tánh thì con mắt (tượng
trưng cho tất cả sáu căn) là vô ngã vô thường không thật, nhưng
đứng về Tướng thì con mắt vẫn thấy, sáu căn hay sáu giác quan
vẫn thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, phân biệt, sáu trần sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp vẫn có, nhưng là giả huyễn, đây là
phá pháp chấp, đề cao Pháp Không.
-
Cư Sĩ Duy Ma Cật đưa ra câu chào dựa
trên lập trường Thể Tánh, Ngài Văn Thù dùng Thật Tướng mà đáp
lại: “Phải đấy, thân người sinh ra thật không từ đâu đến mà mai
đây ra đi thật chẳng đi về đâu.” Ðoạn này so sánh Pháp Thân với
nhục thân. Xác thân mắt phàm thấy được là giả huyễn, không thật
có, vô thường vô ngã, còn Pháp Thân mắt phàm không thấy lại là
chân thật, thường trụ. Ngài Văn Thù thay mặt Ðức Phật hỏi thăm
bệnh cư sĩ nhân đâu mà sinh ? Ông Duy Ma Cật đáp: Chúng sinh có
nhục thân nên có bệnh, nhục thân là do si ái mà sinh ra; đây là
thuyết Mười Hai Nhân Duyên, Si (Vô Minh) là nhân quá khứ sinh ra
quả hiện tại là nhục thân, ái là nhân hiện tại sinh ra quả tương
lai (luân hồi sinh tử). Chúng sinh vì si ái mà chịu nhân quả
luân hồi trong ba cõi sáu đường, Bồ Tát vì lòng Ðại Bi thương
xót chúng sinh, vì trực nhận được lý Vạn Vật Ðồng Nhất Thể, nên
chúng sinh đau bệnh thì Bồ Tát cũng đau bệnh, Bồ Tát phải ở
trong cõi Ta Bà gần gụi chúng sinh, thông cảm đau bệnh để tìm
phương cứu độ. Chỉ khi nào chúng sinh hết bệnh si ái thì Bồ Tát
mới khỏi phải tới lui giúp đỡ. Vì muốn cứu độ chúng sinh nên Bồ
Tát phải thị hiện làm chúng sinh, giống như chúng sinh cũng có
thân có bệnh, có già, có chết, để thân cận chúng sinh, vì đồng
loại đồng cảnh thì dễ dàng thông cảm cứu vớt. Ðó là Tâm Ðại Bi,
đồng nhất thể, vô phân biệt. Ví như mẹ hiền thương con, vì con
có bệnh nên mẹ lo lắng chăm sóc hao mòn sức khỏe, chỉ khi nào
con hết bệnh thì mẹ mới khoan khoái an vui. Bệnh của mẹ là tình
mẫu tử thương con, bệnh của Bồ Tát phát nguồn từ lòng Ðại Bi
vậy.
-
Nhà trống rỗng không có đồ đạc, không
có thị giả hầu hạ: Muốn hết bệnh phiền não thì phải biết mọi sự
vật là giả, không thật có, các Bồ Tát biết các pháp như huyễn vì
các Ngài đã tỉnh giác, ra khỏi giấc mộng dài, còn chúng sinh
thấy các sự vật là có thật, được thì vui mất thì buồn. Các Bồ
Tát không cần đồ đạc, thị giả nên tâm được giải thoát. Chúng
sinh còn nằm mộng, không đến mà thấy đến, thí dụ: nằm mơ thấy
đến Việt Nam, tỉnh dậy không thấy đến đó. Không thấy mà thấy,
cũng đồng nghĩa như vậy, thí dụ: nằm mơ thấy cảnh Chợ Bến Thành,
tỉnh dậy không thấy gì cả. Chúng sinh thấy đẹp xấu, thiện ác, ưa
ghét... là tùy theo nghiệp lực vọng tưởng, ghét ai thì đẹp cũng
cho là xấu, yêu ai thì ác cũng bảo là lành. Cái thấy của chúng
sinh bị lệch lạc. Bồ Tát thấy bằng con mắt trí huệ bình đẳng vô
sai biệt, nhìn suốt qua hình tướng vô thường để thấy cái thể bất
sinh bất diệt.
-
Cư Sĩ Duy Ma Cật đứng trên lập trường
giác ngộ mà nói, không đồ đạc, không thị giả, vì cõi Phật vốn
Không, vô ngã, vô pháp. Tâm đã thanh tịnh thì không phân biệt,
không tật đố phiền não. Muốn được như vậy, phải lấy không làm
không, phải buông xả tất cả mọi quan niệm yêu ghét, không còn
chấp một tí gì nữa, hết chấp ngã chấp pháp thì tâm mới không
phân biệt. Còn Ngài Văn Thù, tuy cũng đồng ý như vậy, nhưng thôi
nói việc đó, hãy nói việc bình thường, nếu cứ nói hoài những
việc cao siêu thì dễ chán, không hợp hoàn cảnh, nên nói chuyện
thực tế thường ngày, không xa rời đời sống. Bệnh Cư Sĩ nhân đâu
mà sinh? Làm sao hết bệnh? Cư Sĩ Duy Ma Cật đáp: “Vì si mê ái
dục mà có bệnh. Vì chúng sinh bệnh nên tôi bệnh. Khi nào chúng
sinh hết bệnh thì tôi lành.”
-
Bồ Tát quên mình để cứu độ chúng
sinh, thân cận chúng sinh để giúp đỡ, chúng sinh ở đâu thì Bồ
Tát tới đó, chúng sinh bệnh nên Bồ Tát bệnh. Nhưng khác nhau ở
một điểm là chúng sinh vì si ái mà bệnh, còn Bồ Tát vì lòng Ðại
Bi nên bệnh theo, không rời bỏ chúng sinh. Bồ Tát Ðịa Tạng phát
nguyện lớn: Ðịa ngục chưa rỗng, thề không thành Phật, chúng sinh
độ hết, mới chứng Bồ Ðề.
-
Ðể giải quyết lòng nghi của mọi người
khi thấy nhà trống rỗng, tuy đã chứng lý Không, nhưng Ngài Văn
Thù cứ hỏi để ông Duy Ma Cật giải thích: Nhà ông trống rỗng vì
cõi Phật vốn vẫn trống không, vô phân biệt, vô ngã vô pháp. Muốn
đạt tới cái Không đó tức là muốn được giải thoát thì nào phải
tìm đâu xa, mà chính tìm ngay nơi tâm hạnh của chúng sinh. Vì
sao? Phải tìm nước trong ở nơi nước đục, tìm giải thoát nơi
triền phược trói buộc, tìm giác ngộ nơi vô minh. Bồ Tát lìa
chúng sinh thì làm sao thực hành lòng đại bi, đổ nước đục đi thì
đâu ra được nước trong? Cứ gạn bỏ bùn cấu thì được nước trong,
cứ hoán cải tâm tánh thì chúng sinh thành Phật (Tâm, Phật, chúng
sinh tuy ba mà không khác nhau). Hễ mê là đọa lạc, là chúng
sinh, cứ giác là giải thoát, là Phật. Kinh sách có câu: Hối đầu
thị ngạn (quay đầu lại là bờ, bờ bên kia, bờ giải thoát). Chỉ
cần quay đầu là rời bỏ hàng ngũ ma quỷ để tiến về quê cũ là cõi
Phật.
-
Ðó cũng là ý nghĩa câu tìm Không ở
trong 62 món kiến chấp là những tà kiến chấp trước sai lầm của
ngoại đạo. Người tu Bồ Tát Ðạo phải học những chấp trước đó, học
để hiểu biết không còn rơi vào những sai lầm đó, cứ sống và học
những kinh nghiệm của thế tục nhưng không đắm nhiễm mà vượt lên
trên, vượt qua tất cả mọi việc trong đời, không chấp là được. Cứ
sống ở đời mà không để đời lôi cuốn nhận chìm là được giải
thoát. Pháp giải thoát phải tìm nơi chúng sinh.
-
Tất cả chúng ma và ngoại đạo đều là
thị giả. Ma là những chúng sinh đắm say dục lạc, không chán sinh
tử, ưa làm chướng ngại người tu hành. Còn ngoại đạo là những
người nhiều kiến chấp vọng tưởng, người đi tìm Chân lý ở ngoài
tâm, hướng về ngoại cảnh. Thông thường, các vị trưởng lão Hòa
Thượng có một người đệ tử hầu cận giúp việc, gọi là thị giả,
cũng tu hành chân chánh, thầy trò giống nhau. Ở đây, thị giả của
Cư Sĩ Duy Ma Cật lại là chúng ma và ngoại đạo, họ gây chướng
duyên nhưng lại là trợ duyên để Bồ Tát thực hành lòng Ðại Bi.
Thật vậy, nếu không có người trêu chọc, mình đâu có cơ duyên tu
nhẫn nhục, nếu không có người quyến rũ, mình đâu có cơ hội quán
thân bất tịnh, nhiếp hộ sáu căn ? Do đó chúng ma và ngoại đạo
giúp Bồ Tát tu Lục Độ Vạn Hạnh, Bồ Tát làm chủ được Tâm ví như
ông chủ sai khiến chúng ma và ngoại đạo là người giúp việc, Tâm
không động thì dục lạc và kiến chấp không lôi cuốn được, nếu
khéo điều khiển thì những kẻ ác lại là những ngườì giúp việc đắc
lực.
-
Cùng ở trong đời, nhưng chúng sinh ưa
làm các việc ác, chìm đắm trong luân hồi sinh tử, còn Bồ Tát chỉ
làm các việc lành, thị hiện sinh tử chứ thật ra các Ngài đã ra
khỏi vòng luân hồi. Chúng sinh giữ 62 món kiến chấp, còn Bồ Tát
giữ Tâm không động niệm, khác nhau ở chỗ đó mà thôi. Bồ Tát vào
đời để độ đời, nếu không vào thì làm sao cứu giúp chúng sinh,
vào đời mà không kẹt ở đời, chúng sinh chính là mục tiêu, là đối
tượng của Bồ Tát thực hành lợi tha. Bệnh của Cư Sĩ Duy Ma Cật do
lòng Ðại Bi nên chẳng do thân hay do tâm, nên hiểu chữ tâm ở đây
có nghĩa là vọng thức chứ không phải Chân Tâm. Thân thì sinh
diệt vô thường, tâm thì như huyễn, không thật có, vì chúng sinh
bệnh nên Bồ Tát thị hiện có bệnh mà thôi. Bồ Tát không lìa chúng
sinh để thấy Phật, mà thấy chúng sinh là Phật sẽ thành, nếu xa
rời chúng sinh thì không thấy Phật, lìa sóng không thấy nước.
-
Bệnh của chúng sinh là từ bốn đại
(đất, nước, gió, lửa) mà khởi, bệnh của Bồ Tát là từ lòng Ðại
Bi, không do bốn đại những cũng không lìa bốn đại, vì lìa bốn
đại thì không thấy chúng sinh.
- Ngài
Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật: “Bồ Tát nên an ủi Bồ Tát có bệnh như
thế nào?” Cùng là Bồ Tát tất nhiên hiểu nhau, cùng sáng suốt
giác ngộ, cùng lìa tướng nhập Tánh, cùng thực hành từ bi lợi
tha, tuy biết ông Duy Ma Cật thị hiện có bệnh mà thôi chứ không
phải có bệnh thật, nhưng Bồ Tát cũng phải tới an ủi thăm hỏi,
làm thế cho đúng cách. Ðây cũng là một vị Bồ Tát xuất gia tới
thăm hỏi một vị Bồ Tát tại gia, tuy hai mà một, đồng kính trọng
nhau, đồng luận pháp mầu, chỉ vì lợi ích chúng sinh.
-
Ông Duy Ma Cật đáp lại với lập trường
tích cực, lìa hai cực đoan: tuy biết thân vô thường, là gốc khổ,
là vô ngã, nhưng không nhàm chán, không hoại diệt thân, mà cũng
không quá quý trọng thân mà nuông chiều chăm sóc quá mức, trái
lại Bồ Tát hướng dẫn người tu phải biết dùng thân làm phương
tiện để đạt cứu cánh dùng thân làm bè qua sông, chính cái xác
thân này sẽ đưa người tu hành tới Pháp Thân thường trụ. Biết
thân vô thường thì phải tinh tấn tu hành, không giải đãi lười
biếng, không chán thân chán cảnh chán đời. Biết thân là nguồn
gốc của khổ nạn, nhưng bản chất là Tánh Niết Bàn, các Bồ Tát đã
chứng ngộ nhưng không xa lìa thân, không vội nhập Niết Bàn, mà ở
lại cõi đời đau khổ dùng thân này ở liền bên cạnh chúng sinh để
chỉ đường dẫn lối tu hành. Biết thân là vô ngã mà dùng thân làm
phương tiện tùy duyên hóa độ chúng sinh, quên mình giúp người.
Biết thân không tịch, lặng lẽ, rốt ráo là không, nhưng vẫn tích
cực hoạt động làm lợi cho người khác, chẳng chủ trương tịch diệt
mà trái lại nương xác thân để đạt tới Chân Diệu Pháp Thân.
-
Dù biết rằng thân này chịu khổ là do
nhân quả nghiệp báo đã gây tạo từ trước, dù ăn năn sám hối,
nhưng không vì những hành động quá khứ mà cam chịu khổ sợ nhọc
nhằn, Bồ Tát quên quá khứ (vì quá khứ đã trôi qua không nắm lại
được) không phải để tiếp tục gây lội lỗi, mà quyết tâm làm lành,
làm tốt, lấy công chuộc tội. Nếu để quá khứ ám ảnh, tội lỗi ray
rứt thì đau khổ hối hận theo hoài, khó dứt ra được. Chi bằng gây
tội thì chuộc lỗi, bị gai lấy gai mà nhổ, té ngã nơi đâu thì
chống tay nơi đó mà đứng dậy, đã sám hối rồi thì nhất định không
tái phạm, mà cũng không nhắc đi nhắc lại làm gì. Nhà tối tăm bẩn
thỉu lâu ngày thì phải thắp đèn là sáng, lau chùi là sạch, than
thở suông không giúp ích gì.
-
Vẫn biết do tội trước mới có bệnh
sau, thí dụ: do ăn uống không gìữ vệ sinh nên bị đau bụng, do
trộm cướp mà bị vào tù ... thì từ nay phải xin chừa, không tái
phạm mới là tốt, nếu cứ buồn rầu để lương tâm cắn rứt mà không
sửa đổi tâm tánh, cứ chứng nào tật nấy, thì bài học quá khứ
không giúp gì cho hiện tại và tương lai. Không nói vào nơi quá
khứ còn có ý nghĩa là Bồ Tát không chấp sự chia cắt thời gian
làm ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) mà chỉ phương tiện nói
có trước có sau mà thôi, vì nơi cứu cánh tuyệt đối, nơi Thể Tánh
không có thời gian vô thường mà lúc nào cũng là Chân Thường Vĩnh
Cửu. Tội lỗi vốn là Không, chẳng có Thật Tướng, do Tâm sinh thì
lại do Tâm diệt, hiểu vậy thì phá được cái chấp thường, chấp
đoạn, lìa hai tướng cực đoan, chứng nhập Chân Như.
-
Ðứng trên lập trường bản thể thì
không có ta có người, không có bệnh có khổ, nhưng trong cuộc đời
tương đối, nơi thế gian vẫn có ta có người, có bệnh có khổ, nếu
phủ nhận là lại lạc vào bệnh chấp không. Vì còn thấy có ta có
người nên phải lấy bệnh mình mà thương bệnh người, đồng bệnh
tuơng lân, lấy lòng mình mà đo lòng người, Bồ Tát thị hiện có
bệnh để hiểu thấu cái khổ khi bị bệnh mà thông cảm chúng sinh đã
đeo bệnh suốt nhiều đời nhiều kiếp, chịu khổ não vô cùng tận. Có
hiểu rõ hoàn cảnh của người mới dễ tìm ra phương thuốc cứu giúp,
biết bệnh do nghiệp báo cũ sinh ra nên Bồ Tát dạy chúng sinh giữ
gìn ba nghiệp thân miệng ý cho thanh tịnh, không làm việc ác,
chỉ làm việc lành, đem công đức hồi hướng cho tất cả chúng sinh
thì các nghiệp cũ được tan đi, mọi bệnh khổ tiêu trừ, ví như vị
thầy thuốc giỏi tìm đúng gốc bệnh, cho đúng thuốc, bệnh tất tiêu
tan. Các vị Bồ Tát nguyện làm thầy thuốc giỏi (Y Vương) để chữa
thân bệnh và tâm bệnh cho tất cả chúng sinh, Bồ Tát thị hiện có
bệnh mà không buồn rầu, vẫn tinh tấn cứu giúp chúng sinh, vui
với Tâm Bồ Ðề lợi tha.
-
Ðó là Bồ Tát không bệnh phải an ủi Bồ
Tát có bệnh như vậy. Còn Bồ Tát có bệnh phải điều phục tâm mình
như thế nào? Tâm đây không phải là Chân Tâm, mà là vọng thức nên
cần phải điều phục. Bồ Tát có bệnh phải nghĩ rằng: bệnh là ở
thân, có thân thì có bệnh, thân do bốn đại (đất, nước, gió, lửa)
hòa hợp mà thành, giả gọi là thân; khi bốn đại không hòa hợp
thăng bằng thì thân tự nhận là có bệnh. Nếu biết bốn đại không
tự chủ tự tại, có thành có hoại, có hợp có tan, thì biết thân
này vô ngã; thân đã vô ngã thì những cái của ta (ngã sở) cũng là
không, không ta, không người, không chúng sinh, không thọ mạng,
không chấp bốn tướng này mà trở về sống với Tánh Thể bình đẳng
không hai. Tánh Thể này là Không, Như Như Bất Động, là Chân Ngã
Niết Bàn. Tánh Thể này không hề có bệnh. Ðây là điểm khác biệt
giữa Bắc Tông và Nam Tông, Bắc Tông chủ trương thâm nhập Tánh
Không của Trí Huệ Bát Nhã, còn Nam Tông chủ trương dứt thọ cảm
để cầu chứng Niết Bàn. Nam Tông thấy có chúng sinh đau khổ nên
cần tu hành thoát khổ, chứng Niết Bàn an vui. Còn Bắc Tông thấy
tất cả là một, chẳng hai, nên Bồ Tát không lìa chúng sinh, không
nhập Niết Bàn.
-
Bệnh là ở thân, có thân nên có bệnh,
có bệnh là do chấp ngã, bỏ chấp ngã là phá được thân kiến, có
trí huệ sáng suốt hiểu biết sự thật, khi đã trừ được ngã và ngã
sở rồi thì thấy tất cả là một, bình đẳng như nhau, ai cũng là bà
con quyến thuộc, không còn yêu ghét oán thân; đẹp xấu khen chê,
ngon dở... đều không làm dao động tâm mình.
-
Ông Duy Ma Cật hiện thân cư sĩ có vợ
con quyến thuộc, nhưng ông hiểu biết sáng suốt, hành động như
một vị Đại Bồ Tát, sau khi thị hiện có bệnh, rồi điều phục vọng
tâm để thoát khổ, nhưng thấy chúng sinh vẫn còn chìm đắm trong
cảnh khổ của ba cõi sáu đường, nên ông thấy còn bổn phận cứu độ
chúng sinh, dạy dỗ chúng sinh dứt trừ gốc bệnh. Gốc bệnh là vô
minh, vọng thức, loạn tưởng điên đảo, phiền não, dính níu sáu
trần trong ba cõi là gốc của Sinh, mà Sinh chính là nguyên nhân
của Già, Bệnh, Chết. Chúng sinh sở dĩ chịu cảnh khổ luân hồi từ
vô số kiếp, thống khổ triền miên trong cảnh tối tăm mờ mịt chưa
biết ngày nào ra khỏi, chỉ vì chưa tìm ra gốc bệnh để trừ. Nay
đã biết gốc bệnh rồi thì phải trừ diệt nó bằng pháp quán Vạn
Pháp Vô Sở Ðắc, mọi vật không có gì là được cả. Vì sao? Vì sáu
căn là huyễn hóa, sáu trần là ảo ảnh, sáu thức mê lầm. Trong Bát
Nhã Tâm Kinh có câu: Vì không có gì được nên các Bồ Tát tâm
không ngăn ngại, không lo sợ điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết
Bàn.
-
Bồ Tát có bệnh mà điều phục được tâm
mình như vậy thì mới thật là chánh giác. Dẹp được oán tặc gọi là
dõng mãnh, dẹp được gốc Sinh, Già, Bệnh, Chết gọi là Bồ Tát.
Nhưng có một điểm rất quan trọng vi tế cần phải lưu ý, kẻo hành
từ bi mà lạc vào ái kiến. Nếu Bồ Tát còn thấy có ta, có người,
có bệnh, vì ta bệnh nên thương người bệnh, đó là ái kiến từ bi,
cần phải bỏ. Vì sao? Thấy có ta thì làm lâu sẽ mỏi mệt, hành từ
bi nhiều sẽ nhàm chán, thấy có người thì khi người kia đau khổ
mình thương, nếu người kia xấu ác thì mình ghét, thấy có bệnh
hay lây, truyền nhiễm nguy hiểm thì mình tránh, tâm mình sẽ khởi
niệm phân biệt bất bình đẳng, khi đó lòng từ bi bị thương tổn,
không còn vô tư. Ðể tránh ái kiến từ bi, trong khi cứu giúp mọi
người, Bồ Tát luôn luôn giác tỉnh, vô ngã , vô pháp, mở rộng
lòng từ bi luôn luôn sẵn sàng với bất cứ ai, bất luận trường hợp
nào, hoàn cảnh dù thuận dù nghịch, không cần đợi duyên, không
cần đủ duyên, lòng từ bi quảng đại này được gọi là Vô Duyên Từ.
-
Khi mình không bị ái kiến che lấp
Chân Tâm thì không bị ràng buộc mà lại còn đi cởi mở sự ràng
buộc cho chúng sinh. Tự cởi trói trước rồi mới cho chúng sinh
sau. Nếu biết thân ta không thật có, chúng sinh không thật có,
sợi dây trói không thật có thì không cần phải cởi cũng vẫn giải
thoát tự tại. Lúc làm việc cứu giúp chúng sinh cần sáng suốt áp
dụng trí huệ và phương tiện, nếu sơ ý thì cởi biến thành trói.
-
Nếu thực hành phương tiện để điều hòa
tâm ý (uống trà, ngâm thơ, thiền hành, cắm hoa...) một cách đúng
sức, đúng thời thì mình cảm thấy thoải mái an vui, đó là phương
tiện cởi. Nhưng nếu dùng quá sức, hoặc say mê, không đúng lúc,
thân tâm bị chi phối lôi cuốn thì đó là phương tiện trói. Cúng
dường Tam Bảo đúng sức đúng thời, thân tâm hoan hỷ thì là phương
tiện cởi. Nhưng nếu phải chạy ngược chạy xuôi, làm việc quá sức,
hoặc đi vay nợ, thân mệt tâm buồn thì việc cúng dường Tam Bảo là
phương tiện trói. Hướng dẫn gia đình đi Chùa, lễ Phật tụng Kinh
đúng lúc, đúng tuổi, hợp căn cơ, khiến mọi người vui vẻ thì là
phương tiện cởi. Nếu mọi người phải làm những việc đó một cách
uể oải không thích hợp, miễn cưỡng mà làm thì là phương tiện
trói. Tóm lại, những việc gì làm tham sân si giảm là phương tiện
cởi, là tốt; những việc gì làm tham sân si tăng là phương tiện
trói.
-
Chúng sinh có nhiều tâm tư ý thích
khác nhau, có những thú vui riêng, nếu trái ý là không nghe; nếu
người ta không muốn thì mình đừng dùng sức mà kéo vào Thiên
Ðường. Nếu ngườì ta muốn vào Ðia Ngục, mình dùng sức kéo ra họ
cũng chẳng theo. Do vậy, Bồ Tát phải khéo léo, tùy duyên phương
tiện mà dẫn dắt, khi thuận khi nghịch, sau phải dùng Trí Huệ mà
hóa độ. Muốn họ theo, mình phải làm gương tốt trước, mình không
uống rượu mới khuyên người đừng uống rượn, mình không nói dối
mới khuyên người đừng nói dối, mình cởi trói cho mình trước rồi
hãy cởi trói cho người khác, đó gọi là Thân Giáo, có đủ phương
tiện huệ và huệ phương tiện.
-
Áp dụng đúng phương tiện để tiêu trừ
tham sân si thì gọi là có huệ phương tiện. Nhưng áp dụng sai
hoặc quá đắm nhiễm phương tiện khiến tham sân si tăng trưởng thì
gọi là không có huệ phương tiện. Tập thể dục đúng sức để được
mạnh khỏe, là có phương tiện hnệ. Nếu quá say mê tập quá sức thì
hại sức khỏe, đó là không có phương tiện huệ.
-
Thường quán thân vô thường, vô ngã,
khổ và Không gọi là có Huệ. Dùng mọi duyên lành, không ngại khổ
nhọc, để độ chúng sinh gọi là có Phương Tiện. Có Huệ Phương Tiện
là phương tiện có trí huệ soi sáng, hóa độ chúng sinh mà vẫn
tỉnh giác, không chấp trước vì biết vô ngã, vô nhân. Gặp người
bội bạc vẫn làm ơn, bị hiểu lầm không nản chí, kiên trì làm mọi
việc lành, dù hoàn cảnh thuận hay nghịch cũng không lùi bước.
Còn Phương Tiện Huệ là có Trí Huệ sáng suốt để áp dụng phương
tiện thích hợp làm lợi ích cho chúng sinh, tùy duyên hóa độ. Nếu
Bồ Tát đem lòng ham muốn, nóng giận, tà kiến, hoặc vì danh lợi
mà làm việc lành, thí dụ : cúng dường Tam Bảo nhiều tiền để được
khen, được tiếng giầu có hơn người, để thỏa lòng ganh tỵ... thì
đó không phải là Phương Tiện Huệ. Bồ Tát thi ân coi như đôi dép
rách mang vứt bỏ, làm rồi quên, bị hiểu lầm coi như thử thách
ngưỡng cửa Ðạo Hạnh, chẳng cần biện bạch, đó là có đủ Huệ và
Phương Tiện vậy.
-
Thân bệnh cũng có thể làm phương liện
để tiến tu đạo hạnh, không vì có bệnh mà chán thân. Khi nằm
dưỡng bệuh, ta có thể quán thân vô thường vô ngã, khổ và Không,
ngoài ra còn lợi dụng phương tiện nằm nghỉ để niệm Phật, tu
thiền, đọc kinh sách, suy ngẫm lý đạo, mở mang trí huệ,... thì
đó chính là Huệ Phương Tiện. Ví như chúng ta có chiếc xe hơi để
di chuyển, thỉnh thoảng xe bị hư thì phải sửa chữa để lại đem
dùng nữa, không vì xe hỏng mà vứt đi. Có sự hiểu biết sáng suốt
thì gặp việc xấu cũng chuyển thành tốt, đó là có Phương Tiện
Huệ. Gặp hoàn cảnh nghịch, gặp ác duyên mà mình vẫn nhẫn nhục tu
hành, vượt qua chướng ngại thì gọi là có Huệ Phương Tiện.
-
Bồ Tát có bệnh nên điều phục tâm mình
như thế, mà không trụ trong đó, cũng không trụ nơi tâm không
điều phục. Ðó là Bồ Tát không còn chấp vào việc điều phục tâm
mình nữa, vượt qua mọi cố gắng, làm chủ được vọng thức quay về
với Chân Tâm, khi ấy mới thật là đầy đủ hạnh Bồ Tát, không theo
phàm phu, không theo hạnh Thanh Văn. Phàm phu thấy đời là khổ,
bỏ việc đời để tu Ðạo, thấy có vọng thức điên đảo cần điều phục,
chưa điều phục được thì buồn bực, thối chí nản lòng. Thấy cuộc
đời đau khổ quá nhiều mà mình không thoát ra khỏi, thành ra tiêu
cực chán đời. Trong giai đoạn này, phàm phu cần lắng lòng bền
chí định tâm, nhờ có Ðịnh nên Trí Huệ soi sáng, qua được cơn
khủng hoảng tiêu cực phát tâm dõng mãnh tích cực tu hành. Còn
hàng Thanh Văn cũng thấy đời nhiều nỗi khổ đau, vọng thức điên
đảo như sóng bể, các Ngài cố gắng điều phục tâm ra khỏi cuộc
đời, nhập Niết Bàn an lạc. Cả hai thái độ đó đều không đúng với
hạnh Bồ Tát. Chư vị Bồ Tát không chấp có đời khổ, có Niết Bàn
vui, có vọng thức phải điều phục, mà các Ngài lìa hai bên khổ
vui, lìa phiền não vọng thức, mà vượt lên trên tất cả với Tâm
tỉnh giác hoàn toàn, khéo ứng dụng hoàn cảnh thuận nghịch, khéo
tùy thuận căn cơ chúng sinh, vào cảnh nghịch mà vẫn thản nhiên
tu được, chứ không sợ mà lánh xa như hàng Thanh Văn, không chìm
đắm trong dục lạc như phàm phu. Các Bồ Tát có đủ bản lãnh để lấy
độc trị độc, chuyển xấu thành tốt, chuyển ồn ào thành yên lặng.
Thí dụ: Trong lớp học, các học sinh nói chuyện lao xao, thầy
giáo phải nói nhỏ nhẹ, lớp vẫn ồn, không làm việc được. Lúc đó,
thầy giáo phải nói lớn tiếng, lấy thước gõ mạnh lên bảng, khiến
học trò im lặng. Lớp học yên rồi thì Thầy không gõ bảng nữa và
bắt đầu giảng bài. Nếu thầy tiếp tục gõ bảng thì không giảng bài
được. Các Bồ Tát cũng vậy, lúc đầu cần điều phục tâm ví như thầy
giáo cần gõ bảng, khi tâm đã thanh tịnh rồi thì không còn trụ
vào việc điều phục nữa, ví như lớp học đã yên rồi, Thầy giáo
không cần gõ bảng.
-
Các Bồ Tát vì hạnh nguyện quên mình
lợi ích chúng sinh, nên có lúc thị hiện làm người xấu, việc ác,
chỉ để hóa độ chúng sinh, giúp đở chúng sinh mà thôi. Trong Kinh
có câu: Dù thực hành sáu pháp thần thông mà không dứt hết lậu
hoặc (phiền năo) là hạnh Bồ Tát. Có khi Bồ Tát thị hiện tham sân
si mà làm Phật sự, tham vì người, sân vì muốn giúp người, si để
cảnh tỉnh người. Thí dụ: Tham mở mang buôn bán để mướn nhiều
người giúp họ có việc làm sinh sống, đem tiền lời làm việc từ
thiện, chứ tâm không mong hưởng lợi cho riêng mình; giả bộ nóng
giận để dạy người tu, khiến người hối hận mà không làm việc ác;
giả bộ mê mờ tội lỗi để làm gương xấu, mọi người thấy mà bỏ dữ
làm lành. Giận người thân là mong họ tốt, mắng nhiếc con là mong
con ngoan. Nếu tâm mình thật có tham sân si thì là phàm phu, còn
thị hiện tham sân si, tâm vẫn thanh tịnh thì là Bồ Tát. Nếu vì
mình mà tham sân si thì có tội. Nếu vì cảnh tỉnh người mà tham
sân si thì là hạnh của Bồ Tát. Ðó chính là phương tiện, nhờ có
trí huệ chiếu sáng mà uyển chuyển tùy duyên giúp đỡ chúng sinh,
không chấp chặt cứng nhắc.
-
Trong suốt đoạn kinh tiếp theo là nói
về 37 phẩm trợ đạo, các pháp môn tu hành, Bồ Tát đều thực hành
mà không rời Phật Pháp. Trợ Ðạo là giúp Ðạo, giúp người tu đi
trên đường chân chánh, tới chỗ rốt ráo giác ngộ. Trợ là giúp, là
phụ, nên chưa phải là chánh, biết vậy mà Bồ Tát vẫn tu, vì biết
đó là duyên tốt, là bè đưa qua sông, tới bờ bên kia thì bỏ bè,
lúc đó Chánh Pháp còn bỏ huống chi là pháp hoặc trợ đạo. Phật
Pháp không cố định, mà biến hóa cho hợp thời hợp cơ, người tu
hạnh Bồ Tát không nhất thiết tu theo pháp nào, chúng sinh cần gì
cho nấy, thích gì dạy nay, miễn là đưa họ tới chỗ giác ngộ.
Nhưng không vì thế mà quá mềm yếu, nếu chúng sinh muốn những
điều sai trái thì cương quyết từ chối, hoặc thị hiện nóng giận
quát mắng, dùng oai lực để đưa họ trở về chánh đạo. Ðó là Bi Trí
Song Tu, có từ bi nhưng vẫn nương trí huệ soi sáng, có trí huệ
nhưng vẫn từ bi nhu hòa. Có từ bi mà thiếu trí huệ thì dễ thành
mềm yếu, dễ bị tình cảm chi phối, không cương quyết. Có trí huệ
mà thiếu từ bi thì dễ thành khắc khổ lạnh lùng, chúng sinh nể sợ
mà không thích gần gụi. Vì vậy Bồ Tát phát huy trí huệ nhưng
không bỏ từ bi, làm gì cũng chỉ vì chúng sinh. Tuy đã chứng Niết
Bàn thanh tịnh mà vẫn không lìa cõi Ta Bà nhơ uế, là vì để hóa
độ chúng sinh.
-
Các Bồ Tát đã chứng ngộ quán sát cõi
Phật vắng lặng như hư không, nhưng vẫn phương tiện hóa ra nhiều
cõi Phật khác nhau tùy ý mong cầu của chúng sinh. Dù đã chứng
quả Phật nhưng vẫn không bỏ đạo Bồ Tát. Như Ðức Bồ Tát Quán Thế
Âm vẫn là một vị Cổ Phật danh hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai,
nhưng vẫn ứng hiện nhiều thân ở cõi Ta Bà để tầm thanh cứu khổ.
Các Bồ Tát điều phục được tâm mình như thế thì gọi là đủ hạnh Bồ
Tát, ở nơi sinh tử không nhiễm ô, ở Niết Bàn vẫn độ chúng sinh,
tuy hóa độ tất cả chúng sinh mà không yêu thương dính níu, không
đắm say chấp trước, tuy xa lìa tất cả phiền não ràng buộc mà
không diệt tận thọ tưởng, tuy biết tất cả là Không mà vẫn làm
mọi công đức, tuy biết vô ngã vô tướng mà vẫn không bỏ một chúng
sinh nào, tuy biết vô tác mà vẫn thị hiện làm mọi việc lành, tuy
biết vô khởi mà vẫn phát tâm tu hành thanh tịnh, tuy biết vô đắc
mà vẫn giúp chúng sinh hưởng quả vị giải thoát, tuy đã tịch diệt
mà vẫn hiện thân trong vòng sinh tử, tuy đã rốt ráo trong sạch
mà vẫn tùy chỗ ứng thân, phòng dâm quán rượu là nơi thường lui
tới, không ngoài mục đích dẫn dắt chúng sinh ra khỏi nơi u mê
tội lỗi. Dù thực hành các pháp bất sinh bất diệt mà Bồ Tát vẫn
dùng tướng hảo trang nghiêm đeo chuỗi ngọc tràng hoa, y phục
lộng lẫy để làm vui đẹp lòng người khiến họ kính quý mà theo,
chứ các Ngài chẳng còn đắm say những đồ trang sức y phục. Cũng
có lúc thị hiện làm Thanh Văn Duyên Giác ở nơi núi rừng tịch
mịch, tu hạnh đầu đà khổ cực mà vẫn không rời Trung Ðạo, tất cả
chỉ vì chúng sinh, họ muốn gì là các Ngài tùy thuận, tùy duyên
hóa độ, chỉ cần họ biết quay đầu trở lại bỏ dữ theo lành, phát
tâm Bồ Ðề là được.
-
Có sức mạnh khả năng như vậy thì mới
có thể phát lời thệ nguyện lớn như Bồ Tát Ðịa Tạng: “Ðịa ngục
chưa trống, thề chẳng thành Phật. Chúng sinh độ hết, mới chứng
Bồ Ðề.” Có điều phục được tâm mình như đã nói ở trên thì mới có
thể thực hành Bồ Tát Ðạo một cách rốt ráo.
-
Sau khi ông Duy Ma Cật nói xong có
tám ngàn vị Trời phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các
vị Trời tu mười điều lành, có nhiều phước báo, chịu ít phiền
não, hưởng nhiều dục lạc nay được nghe những công hạnh lợi tha
của Bồ Tát Ðạo, như người mê chợt tỉnh, như đang ở nơi tối được
ra chỗ sáng, sự hiểu biết được chiếu soi rực rỡ, cặp mắt đui mù
được lành, bèn phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, trên
cầu Phật Ðạo, dưới độ chúng sinh. Oai lực của lời Cư Sĩ Duy Ma
Cật đã chuyển hóa lòng tham đắm dục lạc, say mê hưởng phước của
các vị Trời biến thành tâm vị tha, bớt lòng ích kỷ mà phát tâm
Bồ Ðề, thật là hy hữu.
-
Huyền nghĩa của Phẩm này là những
người tu hạnh Bồ Tát phải điều phục tâm mình trước, rồi hãy đi
an ủi hóa độ chúng sinh. Tất cả do Tâm tạo, tâm an thì cảnh
thuận, tâm tịnh quốc độ tịnh. Khi tâm thanh tịnh rồi thì tha hồ
ung dung tự tại vào ra ba cõi, các duyên thuận nghịch chẳng làm
động lòng, chúng sinh khó dạy chẳng làm lui bước, làm mọi việc
với lòng không mong cầu, lặn lội trong bùn nhơ để cứu vớt chúng
sinh với tâm vô phân biệt, Như Như Bất Ðộng, vì các Bồ Tát đã
hòa mình với chúng sinh, Tất cả Là Một.
- --o0o--
|
|