|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
(Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận)
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn -
USA
1991
- 06- PHẨM BẤT
TƯ NGHÌ
-
-
Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất thấy nhà
ông Duy Ma Cật không có bàn ghế, bèn suy nghĩ không biết mọi
người sẽ ngồi nơi đâu? Ông Duy Ma Cật biết ý liền hỏi Ngài vì
Pháp mà đến hay vì chỗ ngồi mà đến? Ngài Xá Lợi Phất đáp vì Pháp
mà đến.
-
Nhà ông Duy Ma Cật giầu có tất nhiên
có nhiều đồ đạc quý giá, nhưng ông dùng thần thông làm cho nhà
trống rỗng là có ý muốn diễn tả tâm thanh tịnh, Tâm Không, hết
phiền não nhiễm ô. Phẩm thứ V nói về Ngã Không, Phẩm thứ VI này
nói về Pháp Không, dạy người tu hành đừng đắm nhiễm bất cứ một
pháp nào, cứ tùy thuận mà tu. Người cầu pháp thân mạng còn không
tham tiếc huống chi bàn ghế; muốn tới Chân Lý, người tu hành
phải phá trừ ngã chấp và pháp chấp, lìa năm uẩn, mười hai nhập,
mười tám giới. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Mười hai
nhập gồm có sáu căn và sáu trần. Mười tám giới gồm sáu căn, sáu
trần và sáu thức. Nói mười tám giới là gồm cả vật chất và tinh
thần hợp lại cấu tạo nên chúng sinh và cảnh vật trong ba cõi.
Người cầu pháp không được đắm nhiễm trong mợi sự vật ở thế gian,
ngay cả đến Ba Ngôi Quý (Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng) cũng không
được đắm trước, vì đứng về Lý Tánh tuyệt đối thì Phật Bảo cũng
không cầu. Pháp Bảo (Tứ Diệu Ðế) cũng không đắc, Tăng Bảo cũng
không trụ, Vô Cầu, Vô Ðắc, Vô Trụ, không thể dùng hữu vi để cầu
vô vi, không dùng hữu tướng để đắc Vô Tướng hay Thật Tướng. Vậy
muốn cầu pháp, cầu Chân Lý thì phải Vô Cầu bỏ tâm mong cầu, vượt
qua ngã chấp và pháp chấp thì thấy được Chân Lý.
-
Người tu hành mà còn thấy có mình tu,
có pháp môn tu, có chúng sinh để độ, có Niết Bàn để chứng thì
còn chấp ngã, chấp pháp, còn luẩn quẩn trong vòng sắc tướng hữu
vi thì không thể chứng ngộ pháp vô vi được. Nói chứng đắc nhưng
thật ra không gì được cả vì chúng sinh sẵn có Phật Tánh đầy đủ
Ðức Tướng của Như Lai rồi, ví như viên ngọc nằm sẵn trong áo, mê
thì không biết là có, nay tỉnh thì thấy viên ngọc cho là đắc,
thật ra có đắc gì đâu. Pháp là tịch diệt, không sinh diệt, không
tạo tác, không thủ xả, không xứ sở: đã là tịch diệt thì không
chấp trước gì nữa, cứ để Tâm thanh tịnh an nhiên tự tại, việc gì
tùy thuận lợi ích chúng sinh thì làm, làm xong thì bỏ, chỗ nào
cũng tu được, ở chùa, ở chợ, ở nhà đều tu, mà tu nhà tu chợ cần
hơn tu chùa, vì gần nhiều chúng sinh xấu ác, có nhiều cơ duyên
thực hành Bồ Tát Ðạo. Không chấp tướng giầu nghèo, không chấp
hình thức lễ bái, không trụ một pháp môn nào, mà phải tùy thuận
chúng sinh, tùy hỷ hướng dẫn tu hành, ai thích tụng kinh thì dạy
tụng kinh, ai thích niệm Phật thì cùng niệm Phật, ai thích tu
thiền thì cùng tọa thiền, không chấp pháp nào hơn pháp nào, miễn
là hợp căn cơ ý thích của chúng sinh, lợi ích chúng sinh hướng
về giác ngộ.
-
Đối với tất cả pháp, đừng cầu một cái
gì thì gọi là cầu pháp. Không móng tâm tham đắm, không mong được
vật gì, là vì mình đã sẵn có đủ cả rồi; hiểu vậy thì không tham
cầu nữa, luật nhân duyên quả báo rất minh bạch, dù cầu hoặc
không cầu, khi đủ nhân duyên thì sẽ kết quả.
- Năm
trăm vị Trời được pháp nhãn thanh tịnh; sau khi được nghe lời
nói mầu nhiệm của ông Duy Ma Cật, năm trăm vị Trời thức tỉnh, ví
như người mù được sáng mắt, người ngủ mê tỉnh giấc chiêm bao,
thấy rõ Chân Lý.
-
Ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù nơi
nào có những tòa sư tử tốt đẹp do công đức tạo thành ? Tòa sư tử
là những ghế ngồi oai nghiêm, người nào được ngồi ghế đó phải có
nhiều công đức người khác thấy phải kính trọng sợ sệt, ví như
con sư tử chúa, các súc vật khác thấy phải sợ hãi. Ngài Văn Thù
đáp: về phương Ðông cách đây rất xa có thế giới Tu Di Tướng, có
Phật hiệu là Tu Di Ðăng Vương, có tòa sư tử cao đẹp trang nghiêm
bậc nhất.
-
Kinh Ðại Thừa mỗi khi đưa ra tên một
vị Phật, một vị Bồ Tát, một thế giới, một quốc độ... thường ám
chỉ một đức tánh cao quý, một cái gì tuyệt vời khó diễn tả, vượt
ra ngoài ngôn ngữ tâm duyên. Ở đây, danh từ Tu Di Ðăng Vương,
nghĩa đen là ngọn đèn Vua ở trên núi Tu Di, một ngọn núi cao
nhất thế giới Ta Bà, sáng nhất, chiếu soi xa nhất, cao nhất. Ðây
là muốn ám chỉ Phật Tánh. Chân Tâm tuyệt vời huyền diệu, sáng
soi vô cùng vô tận vô biên.
-
Ðức Phật Tu Di Ðăng Vương có ba vạn
hai ngàn tòa sư tử cao rộng trang nghiêm thanh tịnh, nghĩa là
Chân Tâm có nhiều đức tánh, oai lực không thể nghĩ bàn, cũng có
nghĩa là những người tu hành chân chánh có nhiều thần thông mạnh
mẽ, dù không cầu mà vẫn có. Do ông Duy Ma Cật hiện sức thần
thông mà ba vạn hai ngàn tòa sư tử đó đến vào trong nhà ông mà
không bị ngăn ngại, không bị ép chật. Ðứng về sác tướng thì có
cao thấp, rộng hẹp, lớn nhỏ, đây đứng về Thể Tánh thì không có
hình tướng nên mọi sự mọi vật dung thông tự tại. Kinh Hoa Nghiêm
trình bày Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, cũng nói đem núi Tu Di nhét
vào trong hạt cải mà không thấy chật hẹp. Vì sao? Ðây là nói về
Bản Thể không tướng trạng, mới như vậy. Lớn nhỏ (không gian),
dài ngắn (thời gian) đều bị đảo lộn, lìa hình tướng vật chất để
thể nhập tâm linh. Ông Duy Ma Cật tượng trưng cho bản tâm thanh
tịnh mà ai cũng có. Ðem nhiều tòa sư tử vào nhà ông mà không bị
ép chật, vì tòa sư tử đây là những đức tánh, những thần thông
oai lực không có tướng trạng nên không thấy chật hẹp. Ví như
chúng ta nghĩ tới núi Tu Di, đem hình bóng núi vào trong tâm mà
không thấy bị dồn ép, vì chỉ là tâm tưởng mà thôi, không thật
có.
-
Tâm có nhiều sức mạnh, đem hình tướng
những vật lớn vào trong tâm là đảo lộn không gian, đem quá khứ
vị lai vào hiện tại là đảo lộn thời gian, tâm mình có khả năng
như vậy, nhưng vẫn là vọng tưởng, là huyễn, là giả, đừng chấp là
thật, thì tham sân si không nổi, được an định. Bồ Tát biết vọng
tưởng là huyễn nên có chánh định, chúng sinh tưởng là thật nên
bị tán loạn, không có định, bị khổ đau. Người tu hành không để
trần cảnh chi phối mình; những gì đã qua thì đừng cho trở lại,
gây thêm phiền não, những gì chưa đến thì chẳng bận lòng, do đó
không sợ phiền não, không cần tránh né vì biết chúng không thật
có, như huyễn, chúng đến thì rồi sẽ qua, gặp mọi hoàn cảnh đều
coi nhẹ, chỗ nào cũng tu được, không chấp chùa mới thanh tịnh,
còn chợ ồn ào, nhà ràng buộc. Chỉ cần Tâm tịnh thì nơi nào cũng
tịnh, cảnh nào cũng thanh.
-
Các Bồ Tát lớn có thần thông nên biến
hiện thân hình cao lớn, lên ngồi tòa sư tử được. Còn các Bồ Tát
mới phát tâm và các hàng Thanh Vãn đệ tử đều không lên được. Các
Ðại Bồ Tát đã nhiều công tu hành, không còn chấp tướng, thâm
nhập Bản Thể có thần thông diệu dụng, tâm thể dung thông mọi sự
mọi vật không gì chướng ngại, nên dễ dàng lên ngồi tòa sư tử, vì
đối với các Ngài, làm gì còn cao thấp, rộng chật? Nhưng đối với
các vị Bồ Tát mới phát tâm và hàng Thanh Văn thì còn chấp hình
tướng, chấp có giới luật phải giữ, có pháp môn phải tu, có quả
vị để chứng, các Ngài chưa thâm nhập Bản Thể, tâm chưa dung
thông với vũ trụ, chưa hòa nhập với thiên nhiên, chưa thấy tất
cả là một, nên còn thấy có cao thấp rộng chật, vì vậy không lên
ngồi tòa sư tử được. Ông Duy Ma Cật liền bảo Ngài Xá Lợi Phất và
hàng đệ tử phải đảnh lễ Ðức Tu Di Ðăng Vương Như Lai mới có thể
lên ngồi được. Ngài Xá Lợi Phất được lên ngồi liền tán thán, ông
Duy Ma Cật nói: Ðó là pháp Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát của các Bồ
Tát.
-
Các hàng Thanh Văn đệ tử phải đảnh lễ
Ðức Tu Di Ðăng Vương Như Lai, nghĩa là bỏ chỗ tối về chỗ sáng,
bỏ vô minh về với ngọn đèn sáng soi cao diệu tuyệt vời, bỏ tướng
nhập tánh, bỏ vọng thức quay về với Chân Tâm, hoán cải tâm hồn,
bỏ Tiểu Thừa mà qua Ðại Thừa, thì mới lên ngồi tòa sư tử, phải
bỏ những gì thấp hèn, nặng nề, ô trược, mới bay bổng lên chỗ
tuyệt đỉnh cao siêu. Ðó là pháp Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát, một
pháp môn không thể nghĩ bàn, một con đường đưa đến giải thoát,
vì nó vượt ra ngoài danh từ ngôn ngữ tâm duyên, chỉ khi nào
chứng thì biết. Nói chứng là tạm nói cho dễ hiểu mà thôi, chứ
thật ra thì vô chứng, vô đắc. Chư Tổ có dạy: Tu, vô tu, tu.
Chứng, vô chứng, chứng. Có nghĩa là: tu đến chỗ không thấy mình
tu mới thật là tu Chứng đến chỗ không thấy mình chứng mới thật
là chứng. Những thí dụ: đem núi Tu Di nhét vào hạt cải, đem nước
bốn biển lớn cho vào lỗ chân lông, ném cõi tam thiên đại thiên
thế giới ra xa rồi đem trở lại, kéo dài bảy ngày làm một kiếp,
thu ngắn một kiếp làm bảy ngày, hút gió vào miệng, đem lửa vào ý
muốn diễn tả tất cả các pháp trong không gian và thời gian (đất,
nước, gió, lữa là bốn đại tượng trưng cho không gian, ngày và
kiếp tượng trưng cho thời gian) đều là những tướng trạng tương
đối, vô thường vô ngã, là những ước lệ đặt ra để phân biệt chúng
đều là giả huyễn, không thật có. Các Ðại Bồ Tát thấy rõ bản thể
của vạn pháp nên các Ngài ung dung tự tại, còn chúng sinh thì u
mê chấp trước nên cứ quanh quẩn trong vòng sinh tử luân hồi, bị
các luật thiên nhiên vận chuyển chi phối mà không hay biết gì
cả.
-
Các Bồ Tát trụ cảnh Bất Khả Tư Nghị
Giải Thoát hay dùng thần thông hiện các thứ thân Phật, Bồ Tát,
Trời, Vua... biến các thứ tiếng to nhỏ thành tiếng Phật diễn nói
các pháp: Ðây là cảnh giới không thể nghĩ bàn của các Ðại Bồ Tát
tùy duyên hóa độ chúng sinh, thuận theo ý chúng sinh mà biến
hiện các hình tướng thích hợp, dù biết âm thanh như huyễn mà vẫn
biến ra các thứ tiếng để hoằng dương Phật Pháp. Nếu chúng sinh
biết lắng lòng quán sát các luật thiên nhiên đang vận hành vũ
trụ, gió thổi lá rụng hoa tàn là luật vô thường, mọi vật đổi
thay là lý vô ngã, thì đâu đâu cũng thấy hình bóng Phật, thể
hiện Chân Lý tuyệt vời, mọi thứ tiếng trên thế gian đều là tiếng
Phật, tiếng Pháp, tất cả đều diễn đạt Chân Lý.
-
Nếu biết áp dụng thâm nghĩa của đoạn
kinh này vào cuộc đời thì không còn chấp hình tướng, âm thanh mà
vượt lên trên để tiêu dao tự tại, hết trói buộc khổ đau. Nếu
không chấp hình tướng thì không cần đồ trang sức, quần áo sang
trọng, trang điểm mặt mày... mà chỉ cần làm sao cho sạch sẽ vui
vẻ, thanh tịnh hoan hỷ là được. Nếu không chấp âm thanh, biết
các thứ tiếng, các lời nói như huyễn thì không để lời khen tiếng
chê chi phối, những tiếng xấu ác thị phi đều coi như gió thoảng
ngoài tai, khi đó tâm được an định, bình tĩnh sáng suốt để tu
hành. Không nghe tiếng đời thì mới nghe được tiếng Phật, tiếng
Tổ. Trái lại, nếu cố chấp tiếng thị phi thì dù Phật hay Tổ có
dạy gì cũng khó nghe thấy để làm theo. Có câu thơ:
-
Đôi lời phù phiếm tiêu không nổi
-
Nói chi lời Tổ ở Tây Phương.
-
Ngài Ðại Ca Diếp nghe được pháp môn
Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát của Bồ Tát, ngợi khen chưa từng có,
chúng sinb có mắt như mù, có tai như điếc không thấy không nghe,
người trí được nghe ai mà chẳng phát tâm vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Các hàng Thanh Văn ngộ đạo được đôi chút cho là đủ,
dù chứng quả A Lan Hán ra khỏi sinh tử luân hồi nhưng chưa được
rốt ráo nay đứng trước sự thật tuyệt vời, thấy rõ oai lực của Bồ
Tát, mới biết mình hãy còn chấp trước nơi pháp Tiểu Thừa, mình
mới đã được một đoạn đường dẫn tới giải thoát, nên tủi thân
trách phận, than khóc hối tiếc sự u tối của mình, còn các Bồ Tát
thì hết sức vui mừng, tin hiểu tu theo pháp Ðại Thừa, nhờ vậy
chúng ma không thể làm gì được.
-
Chúng ta thường quan niệm ma là những
hình bóng hiện lên đe dọa làm hại khiến chúng ta sợ hãi, làm
chướng ngại sự tu hành. Nhưng ông Duy Ma Cật lại nói rằng Ma
Vương phần nhiều là các bậc Bồ Tát trụ nơi pháp Bất Khả Tư Nghị
Giải Thoát dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh, thị hiện
làm Ma Vương, để giáo hóa thử thách chúng sinh có tu hành kiên
cố hay không ? Thí dụ: Có người phát tâm tu hành bố thí, các Bồ
Tát thị hiện Ma Vương đến xin vàng bạc, nhà cửa, vợ con, chân
tay đầu mắt... xem người tu đó có thực hành bố thí như đã phát
nguyện không ? Hoặc có người phát tâm tu hạnh nhẫn nhục thì các
Bồ Tát thị hiện Ma Vương đến quấy nhiễu xem người tu có nhẫn
nhục được không? Hoặc có người phát thệ nguyện tu hành thanh
tịnh lìa sắc dục thì các Bồ Tát thị hiện Ma Nữ đến thử thách
quyến rũ xem người tu có bị sa ngã không?
-
Nhưng nói về lý thì các Ma Vương
chính là thất tình lục dục tiềm ẩn trong tâm khảm chúng sinh,
những thói hư tật xấu luôn luôn xui giục chúng sinh làm điều
sằng bậy, người tu hành cần tinh tấn sáng suốt đối trị vọng thức
của mình, thấy điều xấu thì tránh, điều tốt thì làm (thực hành
Tứ Chánh Cần), lần lần vọng tưởng bị điều phục, Chân Tâm sáng
tỏ, đó là được giải thoát không thể nghĩ bàn vậy. Những việc khó
làm như vậy chỉ có các vị Bồ Tát Ðại Thừa mới kham được, còn các
Thanh Văn tu theo Tiểu Thừa hoặc phàm phu thì không làm được, vì
không chịu nổi sự thử thách nặng nề, ví như bị con voi lớn dày
đạp, sức lừa không chịu nổi. Giáo lý Ðại Thừa khó nghe khó hiểu,
cần phát Bồ Ðề Tâm dõng mănh mới tu theo được.
-
Các Bồ Tát hiện thân Ma Vương để giáo
hóa chúng sinh tu trong cảnh nghịch, mà chính những cảnh nghịch
lại giúp người tu trưởng thành nhẫn nhục, phát huy trí huệ, nẩy
nở khả năng bất ngờ, vì phải gắng sức tích cực chế ngự nghịch
cảnh, vượt qua khó khăn. Mình có trải qua những khó khăn loạn
động của cuộc đời rồi mới dạy người khác tu trong cảnh nghịch;
nhờ biết các pháp như huyễn nên không sợ, không phiền não, không
say đắm, nhờ có trí huệ và từ bi nên có thể ở đời để cứu giúp
chúng sinh mà không chán nản mỏi mệt, không sợ dòng đời lôi
cuốn, đó là đường lối tu hành của Kinh Duy Ma Cật. Lấy gia đình
xã hội làm đạo tràng, lấy chúng sinh tội lỗi làm mục tiêu thân
cận giáo hóa, tìm Niết Bàn thanh tịnh trong đời sống xã hội,
trong cảnh phiền não vọng tưởng của chúng sinh, chuyển hóa vọng
thức của chúng sinh thành Chân Tâm, Tâm Tịnh là Ðạo Tràng, Tâm
Tịnh Quốc Ðộ Tịnh. Ðó chính là tôn chỉ và mục đích của Kinh Duy
Ma Cật.
-
Ba vạn hai ngàn vị Trời nhờ tu mười
điều thiện mà được hưởng nhiều phước báo, nay được nghe Ngài Ðại
Ca Diếp tán thán pháp môn Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát, liền phát
tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, nghĩa là không ham phước
đức nữa mà cầu công đức, bỏ pháp hữu vi hữu lậu để mong được vô
vi vô lậu lìa Tiểu Thừa để bước trên đường rộng rãi, ngồi xe lớn
tiến về chỗ giải thoát hoàn toàn, nhập Bản Thể Chân Như.
- --o0o--
|
|