|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
(Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận)
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn -
USA
1991
-
07- PHẨM QUÁN CHÚNG SANH
-
-
Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Bồ Tát quán sát
chúng sinh phải thế nào?
-
Chúng sinh là tất cả muôn loài có sự sống, hữu tình và vô tình,
bao gồm cả động vật, thực vật, khoáng chất, đã chịu nhiều phen
luân hồi sinh tử trong ba cõi sáu đường. Phẩm này thuyết minh về
chúng sinh tướng chỉ rõ Bản Lai Diện Mục của chúng sinh ngõ hầu
đi tới chỗ phá chấp chúng sinh tướng.
-
Chúng ta thường thấy có ta, có người, có chúng sinh, có đời sống
kéo dài một khoảng thời gian tương đối dài hay ngắn, nhưng ông
Duy Ma Cật lại nói chúng sinh không thật có, chỉ là giả tạm mà
thôi, ví như người huyễn do ảo thuật biến hóa ra, như trăng đáy
nước, như mặt trong gương... Tất cả những thí dụ do ông Duy Ma
Cậl nói ra đều diễn tả những vật không có thật. Ngài Văn Thù
liền hỏi: Nếu chúng sinh không có thật thì tại sao lại phải thực
hành bốn Tâm Vô Lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả)? Ông Duy Ma Cật giải
thích: Tuy biết chúng sinh không thật có, không bền chắc, nhưng
các Bồ Tát vẫn thực hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, dĩ huyễn độ chân, dùng
pháp huyễn, độ người huyễn, đắc quả huyễn. Ðứng về Bản Tánh thì
tất cả là huyễn, nhưng đứng về tướng trạng thì vẫn có ta, có
người, có phương pháp tu hành, có quả vị để chứng, cho nên các
Bồ Tát vẫn lặn lội ở đời để cứu độ chúng sinh. Các Bồ Tát quán
chúng sinh như thế, không phải thật, không phải giả.
-
Chúng sinh khác nhau do chịu nghiệp báo gây tạo nặng nhẹ chẳng
đồng, nhân lành quả ngọt, nhân xấu quả đắng; Bồ Tát quán sát
chúng sinh chỉ là giả có, huyễn hóa, trước có sau không. Lúc sự
việc đương hiện tiền thì là tạm có, vì mắt thấy tai nghe được,
khi sự việc đã qua thì coi là huyễn hóa, qua rồi thì bỏ, đừng
nhắc tới hoặc đem theo làm gì. Khi nhớ lại, thấy hình bóng trong
tâm thì phải quán mọi sự mọi vật như huyễn, biết là huyễn thì
lìa. Nếu chưa lìa được thương ghét thì việc quán sát chưa thuần
thục, cần gắng sức tu thêm, niệm Phật, trì chú, tụng kinh để
diệt trừ túc nghiệp, phá hết phiền não.
-
Khi quán chúng sinh như huyễn rồi, Bồ Tát tâm được tự tại an
vui; muốn cho chúng sinh cũng được an vui như mình, Bồ Tát liền
dạy chúng sinh quán tất cả như huyễn, đó là do lòng từ chân
thật, mong cho chúng sinh được như Bồ Tát, tuy nhiều mà một. Bồ
Tát có gì, chúng sinh có nấy, cho đến khi được sự an vui của
Phật, rốt ráo tự tại, đó là lòng Từ của Bồ Tát. Lòng Bi là Bồ
Tát làm được công đức gì thì chia với chúng sinh cùng hưởng
khiến chúng sinh hết khổ hoặc bớt khổ. Lòng Hỷ thì tâm được vui
khi thấy chúng sinh vui, cùng nhau hoan hỷ, khi việc làm hợp với
Chân Lý, không hại người khác, mình và người cùng vui, thân và
tâm đều vui vẻ, sự vui này không xây dựng trên cái khổ của người
khác. Lòng Xả là buông bỏ mọi tâm niệm cầu phước báo, hoặc tham
sân si. Làm việc lành không mong cầu được đền ơn, quên hết các
việc đã làm giúp đỡ người khác; cả đến những việc ác lỡ làm cũng
cần quên đi, sau khi thành tâm sám hối, vì nếu cứ bị ám ảnh nhớ
đến hoài những việc xấu, lòng buồn rầu khổ sở cắn rứt thì tâm
cũng khó thanh thản mà tu hành. Nếu sau khi giúp ai một việc gì
mà mình không xả, không quên, còn mong người ta trả ơn, thì
thường bị thất vọng, vì chúng sinh phần đông bội bạc, ơn thì
quên chóng, oán thì nhớ lâu. Nếu cứ nhớ là đã làm việc lành rồi
thì cho là đủ, không chịu tiếp tục làm thêm nữa.
-
Sau khi làm các việc ở đời, thấy lo cảnh sinh tử là đáng sợ, Bồ
Tát phải y nơi công đức của Như Lai, trụ vào việc cứu độ chúng
sinh; muốn độ chúng sinh, trước hết mình phải có đủ oai lực để
trừ phiền não, có chánh niệm biết thân vô ngã vô thường nhiều
tham dục, hư vọng điên đảo, tuy nói trụ nhưng thật là không trụ,
mới lập được tất cả pháp. Ðoạn này giống Kinh Kim Cang: an trụ,
mà không an trụ, mới là an trụ.
-
Y nơi sức công đức của Như Lai, hiểu theo Sự thì có nghĩa là
nương tựa vào Ðức Phật, y theo lời dạy của Ngài mà tu hành thành
Phật để hóa độ chúng sinh; hiểu theo Lý thì có nghĩa là nương
vào Chân Tâm, y theo Phật Tánh mà làm các việc lành lợi ích
chúng sinh. Ðiều quan trọng là phải giữ Chánh Niệm, luôn luôn
tỉnh giác, nhớ nghĩ chân chánh, không cho tạp niệm vọng tưởng
nổi lên. Có chánh niệm thì biết các pháp không sinh không diệt,
thân là gốc của tội lỗi, tâm vô trụ thì mọi pháp đều thành tựu
tốt đẹp. Tâm vô trụ đây là trở về với Bản Tâm thanh tịnh. Lúc mê
mờ thì quên hết Bản Tâm, hư vọng điên đảo hiện ra chi phối mọi
hành vi. Hết mê, tỉnh giác thì Bản Tâm thanh tịnh lại hiện liền,
ví như hết mây che thì mặt trăng lại chiếu sáng.
-
Ðứng về tướng thì có chúng sinh để an trụ cứu độ, nhưng không vì
vậy mà Bồ Tát đắm trước trong việc an trụ cứu độ, vì biết chúng
sinh là giả huyễn, việc an trụ cứu độ cũng giả huyễn. Ðứng về
Tánh thì không còn chấp việc an trụ cứu độ, tất cả chúng sinh
đều có Tánh Phật, sáng suốt như một, vốn vẫn an trụ, không cần
cứu độ. Từ chỗ không an trụ, không gốc này mà lập tất cả Pháp,
do đó chúng sinh là Không, các pháp cũng là Không, Tánh Không mà
giả có. Chân Không Diệu Hữu là như vậy.
-
Bấy giờ trơng nhà ông Duy Ma Cật có một Thiên Nữ tung rải hoa
trời trên mình các vị Bồ Tát và đệ tử lớn của Phật, khi hoa đến
mình các Bồ Tát thì liền rơi xuống, còn khi đến mình các vị đệ
lử lớn thì đều mắc lại, các vị này dùng hết thần lực phủi mà hoa
không rớt.
-
Trong kinh thường nói đến việc các vị Trời và Thiên Nữ tung hoa
để cúng dường tán thán Phật. Hoa có nhiều mầu sắc rực rỡ, có mùi
hương thơm ngát thanh tịnh, thường được dùng để trang hoàng đạo
tràng, hoặc dâng lên hiến cúng diễn tả lòng biết ơn hoan hỷ. Ở
đây, hoa tượng trưng cho Chánh Pháp của Phật. Thiên Nữ tung rải
hoa là ý kinh muốn nói lên sự vui mừng của các vị Trời sau khi
được nghe Diệu Pháp liền tuyên lại cho người khác nghe.
-
Các đệ tử lớn thuộc hàng Thanh Văn, chưa phát tâm Bồ Tát, hãy
còn phân biệt pháp chấp, thấy có pháp tu, có quả vị chứng, chưa
đoạn các tập khí kiết sử ràng buộc, chưa xả được lòng mong cầu
chứng đắc, nên hoa dính mắc lại trên áo. Còn các Bồ Tát đã đoạn
hết tư tưởng phân biệt, diệt trừ ngã chấp và pháp chấp, đoạn hết
các tập khí kiết sử, thực hành tâm Xả tới chỗ rốt ráo nên hoa
không dính mắc. Người tu hạnh Bồ Tát sau khi làm được việc gì
tốt thì quên ngay đi để tiếp tục làm việc lành khác, vả lại biết
tất cả đều là Không, là Một, có liên quan với nhau, nên xả bỏ
được hết các quan niệm ích kỷ hẹp hòi. Còn những người tu theo
hạnh Thanh Văn thì vẫn thấy có ngã có pháp, có chúng sinh, có
việc làm tốt, vì còn nhớ nghĩ đắm nhiễm như vậy nên không xả
được, tâm dính mắc nhiều thứ ví như hoa dính mắc trên áo, không
sao phủi rớt được.
-
Ngài Xá Lợi Phất thuộc hàng Thanh Văn nên còn tâm phân biệt hoa
này không như pháp, thấy có đẹp xấu, khen chê, ưa ghét... tâm
không định nên có lúc hồi hộp lo sợ, khiến loài phi nhân, ma quỷ
thừa cơ làm hại. Ví như nhà không đóng kín cửa, gió mưa vào lọt.
Loài phi nhân, ma quỷ tượng trưng cho sáu trần (sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp) vốn chúng không có phân biệt, chỉ vì tâm
ta phân biệt tốt xấu, thương ghét... nên mới gây phiền não. Khi
tu đến chỗ tâm vô phân biệt mới là vô trụ, được tâm thanh tịnh.
Không phân biệt thì không dính mắc lời khen tiếng chê, màu sắc
đẹp xấu, mùi vị ngon dở... tâm được tự tại. Nếu còn phân biệt,
thích nghe lời khen, nhìn mầu đẹp, nếm vị ngọt... thì còn chấp
trước, sinh lòng thương ghét, yêu người này, ghét người kia,
thích ăn món này, chê món nọ... đó là Thức phân biệt. Bồ Tát
dùng Trí, tuy có phân biệt nhưng không sinh lòng thương ghét,
đối cảnh thuận hay nghịch tâm bình thản, an nhiên không động.
-
Hàng Thanh Văn còn chấp cảnh, còn lòng thương ghét, còn sợ sinh
tử, ưa Niết Bàn... tâm còn trụ nên còn mắc. Bồ Tát tâm vô trụ
nên đi vào vũ trường, quán rượu, ổ điếm mà không sợ, vì tâm
không tham đắm dục lạc. Hàng Thanh Văn không dám vào, đi qua
phải nhắm mắt lại, tránh xa là hơn, vì chưa đủ tâm dõng mănh,
chưa hàng phục và an trụ được tâm.
-
Ðối với hàng Thanh Văn thì giải thoát không có ngôn thuyết nên
Ngài Xá Lợi Phất nín lặng. Trái lại, Thiên Nữ cho rằng ngôn
thuyết văn tự đều là tướng giải thoát, vì không ở trong, không ở
ngoài, không ở hai bên, vả lại tất cả pháp đều là tướng giải
thoát. Lời nói của Thiên Nữ có vẽ mâu thuẫn với giáo lý Tiểu
Thừa mà Ngài Xá Lợi Phất thường học nên Ngài hỏi lại: Không cần
lìa dâm nộ si mà được giải thoát ư?
-
Thông thường, người tu hành rất cần đoạn dâm nộ si (hoặc tham
sân si) nhưng đó chỉ là bước đầu. Khi tu hành đã vững rồi thì
chẳng cần lìa chúng nữa, vì chúng không còn làm hại được, xúi
giục gây tội lỗi nữa. Các Bồ Tát ra vào các phòng dâm tửu điếm
mà không e sợ vì tâm các ngài đã vững quá rồi, không thể nào còn
bị sa ngã được. Các Ngài cần vào các nơi trụy lạc tội lỗi để cứu
giúp, những ai đang chìm đắm trong đó, vì vậy đối với các Bồ Tát
thì Phật nói tánh của dâm nộ si là giải thoát.
-
Kẻ tăng thượng mạn là những người kiêu căng phách lối, chưa
chứng nói đã chứng, chứng ít nói chứng nhiều. Nếu họ vào những
nơi trụy lạc thì sẽ bị chìm đắm nên Phật khuyên bọn họ nên lìa
dâm nộ si. Còn những người đã chứng đắc thật thì Phật nói tánh
của dâm nộ si là giải thoát: Lời của Phật không hề mâu thuẫn.
-
Ðược Ngài Xá Lợi Phất tán thán, Thiên Nữ không nhận đã chứng
đắc, vì nếu nhận có chứng đắc là kẻ tăng thượng mạn, còn chấp
ngã chấp pháp. Cô Thiên Nữ này không thấy có pháp để tu có quả
vị để chứng, vì chính cô cũng không thật có. Tùy ý mong cầu, tùy
tâm niệm của chúng sinh mà cô hiện thân Thanh Văn hoặc Bích Chi
Phật nói pháp Tiểu Thừa, thật ra cô chỉ dùng Ðại Thừa để dạy bảo
chúng sinh quy về Nhất Thừa Phật Ðạo. Cô làm theo hạnh Ðại Bi
của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát hóa hiện nhiều thân hình để hóa độ
chúng sinh, không nhất thiết chấp chặt vào một thân hình nào,
một pháp nào, đây cũng là phá ngã phá pháp chấp, dùng mọi phương
tiện, mọi thân hình, mọi pháp môn để hướng về một mục đích duy
nhất: đó là Phật Ðạo. Kinh Pháp Hoa nói: Vì phương tiện mà chia
làm ba thừa, thật ra chỉ có một Phật Thừa mà thôi. Vì lẽ đó, Cô
Thiên Nữ ở tại nhà ông Duy Ma Cật đã mười hai năm mà chưa từng
nghe nói Pháp Thanh Văn hay Bích Chi Phật, chỉ nghe pháp đại từ
đại bi của Bồ Tát và pháp bất khả tư nghị của Phật. Nhà này
thường hiện ra tám pháp Chưa Từng Có, Khó Ðược:
-
1) Ánh sáng sắc vàng chiếu soi ngày đêm không khác: đây không
phải là ánh sáng mặt trời mặt trăng, vì mặt trời chỉ chiếu ban
ngày, mặt trăng chỉ chiếu ban đêm, đây là ánh sáng của Trí Huệ
lúc nào cũng chiếu soi phá tan hắc ám vô minh tội lỗi.
-
2) Duy Ma Cật có nghĩa là Tịnh Danh hay Tịnh Tâm, tâm thanh tịnh
sáng suốt. Vào nhà ông có nghĩa là vào nơi thanh tịnh, giữ tâm
thanh tịnh thì không bị nhiễm ô, không còn tham sân si.
-
3) Các vị Trời chuyên tu phước, các Bồ Tát tu huệ lợi tha, chư
vị đến nhóm họp không ngớt nghĩa là phước huệ song tu, làm hoài
không ngừng nghỉ.
-
4) Thực hành sáu pháp Ba La Mật và pháp bất thối chuyển của hàng
Bồ Tát vì người quên mình, gặp cảnh nghịch không thối tâm lui
bước.
-
5) Mọi âm thanh đều là pháp, pháp âm bất tuyệt, là tiếng nói của
cõi lòng sâu kín nhiệm mầu, của Tâm thanh tịnh, có diệu dụng
khiến người nghe tin hiểu vâng làm.
-
6) Bốn kho tàng chứa đầy của báu tượng trưng cho bốn Tâm Vô
Lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả, bốn pháp môn tu của hàng Bồ Tát có mục
đích ban vui cứu khổ, giúp chúng sinh qua sông mê bể khổ, tới bờ
bên kia.
-
7) Tâm thanh tịnh nên cảm ứng với chư Phật mười phương, nghe
được Chánh Pháp của chư Phật. Cũng có nghĩa là chư Phật lúc nào
cũng hiện tiền, tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh. Khi tâm nghĩ
lành, làm lành thì Phật Tánh hiện, nhưng khi nghĩ ác, làm ác thì
Phật Tánh ẩn, ví như chư Phật trở về bổn độ.
-
8) Cung điện của các vị Trời là phước báo, cõi Tịnh Ðộ của chư
Phật là công đức, cả hai đều hiện trong nhà, nghĩa là Tâm thanh
tịnh chứa đầy phước báo và công đức, đủ cả hai phương diện thế
gian và xuất thế gian.
-
Ngài Xá Lợi Phất hỏi sao Thiên Nữ không chuyển thân nữ thành
nam? Theo quan niệm cổ xưa, người nữ nặng nghiệp hơn người nam,
địa vị trong xã hội và cả trong Giáo Hội Phật Giáo cũng thua
kém, các vị Ni phải tuân theo tám điều luật cung kính đối với
chư Tăng (Bát Kỉnh Pháp), trước khi thành đạo giác ngộ phải
chuyển thành thân nam đã... Nói vậy không phải khinh chê, phân
biệt nữ thua kém nam, mà nên hiểu nữ tượng trưng cho sự mềm yếu
ủy mị, thiếu cương quyết, còn nam tượng trưng cho sự dõng mãnh
cương cường quyết tâm bền chí. Chuyển nữ thành nam có nghĩa là
người tu hành cần phát thệ nguyện lớn, dõng mãnh tinh tấn tu
hành, ròng rặc mà tiến, gặp khó không lui, giữ tâm như sắt đá
không gì lay chuyển được. Nữ thân hoặc nam thân không quan
trọng, vì thân là giả huyễn, chỉ có trí huệ là hơn hết. Ðoạn này
phá cái bệnh chấp tướng nam nữ, nam hơn nữ kém của xã hội thời
đó, và chủ trương Cần chuyển Tâm hơn Chuyển Thân. Ngài Xá Lợi
Phất còn thấy có tướng nam nữ, còn quan niệm hẹp hòi nên thân
chuyển thành đàn bà. Cô Thiên Nữ tâm niệm rộng rãi nên biến
thành đàn ông. Xong rồi nhiếp thần lực, hai người trở lại nam nữ
như trước, vì Cô đã dạy cho Ngài Xá Lợi Phất một bài học về bệnh
chấp tướng nam nữ rồi.
-
Thiên nữ hóa mình giống như Ngài Xá Lợi Phất và biến Ngài Xá Lợi
Phất thành cô Thiên Nữ, mà Ngài Xá Lợi Phất không sao chuyển lại
được, vì sao? Ngài Xá Lợi Phất tu hạnh Thanh Văn còn chấp tướng,
chưa thoát ra ngoài vòng hình danh sắc tướng, còn kẹt trong vòng
phân biệt nên chưa tự tại biến hóa; còn Thiên Nữ tu hạnh Bồ Tát
không còn chấp trước gì nên có sức thần thông tự tại biến hiện
mọi thân hình. Cô muốn chứng minh rằng thân nam hay nữ đều là
biến hiện, không phải nam không phải nữ, tất cả đều là giả huyễn
mà thôi.
-
Trong đoạn kinh này, Ngài Xá Lợi Phất đóng vai trò chịu thua
Thiên Nữ, dùng phương tiện dạy chúng sinh rằng hàng Thanh Văn
còn thấy có nam nữ, sinh tử, chấp thân có thật, tu hành chứng
Niết Bàn, hết sinh tử. Làm sao bằng trí huệ của Thiên Nữ tu hạnh
Bồ Tát không còn chấp mọi hình tướng, thân là giả huyễn, sinh tử
là giả huyễn. Niết Bàn là giả huyễn, không chứng không đắc. Các
pháp không ở đâu mà ở tất cả, Bồ Ðề không xứ sở nên không có
được. Bồ Đề không có quá khứ, vị lai và hiện tại đó là phá chấp
không gian và thời gian, đây là đứng trên phương diện tuyệt đối
bình đẳng mà nói. Nhờ Thiên Nữ khai ngộ mà Ngài Xá Lợi Phất hiểu
được lý Ðại Thừa vô phân biệt, vô xứ sở, siêu thời gian nên Ngài
nói tướng đàn bà không ở đâu mà ở tất cả, Ngài không đắc quả A
La Hán mà chính là đắc.
-
Thiên Nữ giúp Ngài Xá Lợl Phất phá chấp có sinh có tử, vì theo
tướng trạng thì có sinh ra, có già có chết, nhưng đứng về bản
thể thì không sinh diệt, chỉ tùy duyên biến hiện. Ví như nước
với sóng, có gió thổi thì là sóng, hết gió là nước. Thiên Nữ
cũng phá chấp có tu có chứng quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác, vì có gì là được đâu (vô sở đắc); đứng về tướng thì có
chúng sinh tu các pháp môn rồi chứng quả Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác, đứng về Thể Tánh thì tất cả là Một, là Không, là
Chân Như, là Bồ Ðề, người tu hành giác ngộ trở về cái tánh sẵn
có của mình. Chúng sinh vốn sáng suốt, vốn giải thoát, vì vô
minh sinh khởi, một niệm bất giác nổi lên, tự cho là mê muội,
mang dây tự trói, cảm thấy sinh tử trầm luân, khi giác ngộ thấy
mình trở về quê cũ, ung dung tự tại. Ðức Thích Ca khi thành đạo
dưới cội Bồ Ðề, Ngài nói: “Lạ thay! Lạ thay! Các chúng sinh vốn
đầy đủ đức tướng của Như Lai.”
-
Thiên Nữ phá chấp thời gian, thường được chia làm ba thời kỳ:
quá khứ, hiện tại, vị lai là để dễ phân biệt, tạm nói mà thôi,
chứ Bồ Ðề (giác ngộ, sáng suốt) không có ba thời, mê là chúng
sinh, giác là Phật. Khi mê thì thấy có Phật, Bồ Tát sáng suốt,
có chúng sinh mê mờ, có không gian vô tận (nhiều cõi, nhiều cảnh
giới khổ hoặc vui), có thời gian vô cùng (quá khứ, hiện tại, vị
lai), nhưng khi giác ngộ thì thấy tất cả chúng sinh đều là Phật
(đã thành hoặc sẽ thành), không gian và thời gian đều nằm trong
một điểm gọi là Ðương Xứ, tất cả là Một, Nhất Thiết Tức Nhất, Sự
Sự Vô Ngại của Kinh Hoa Nghiêm.
-
Không đặng mà đặng: tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, nay giác
ngộ thấy mình trở về ngôi vị cũ, có gì là mới đặng đâu.
-
Ông Duy Ma Cật bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: Thiên Nữ đây chính là
Bồ Tát thị hiện theo bổn nguyện để giáo hóa chúng sinh, chứ thật
ra đã có thần thông du hý, chứng vô sinh nhẫn, tùy ý ứng hiện
thân nữ mà thôi.
-
Thâm ý của đoạn kinh này nhấn mạnh tất cả mọi chúng sinh, dù
nghiệp nặng (mang thân nữ), dù chỉ ham tu phước (các vị Trời)
đều có thể phát tâm tu hạnh Bồ Tát được.
- --o0o--
|
|