|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
(Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận)
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn -
USA
1991
-
10- PHẨM PHẬT HƯƠNG TÍCH
-
-
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất, đại diện cho hàng Thanh Văn đệ tử hãy
còn phân biệt thời gian, thấy gần đến giờ ngọ là nghĩ đến việc
ăn trưa. Các tu sĩ Nam Tông giữ giới luật ăn ngày một bữa trước
giờ ngọ, nếu lỡ quá ngọ chưa ăn thì phải nhịn luôn. Còn các tu
sĩ Bắc Tông thì uyển chuyển hơn, quá ngọ ăn cũng được, hoặc ăn
ngày hai hoặc ba bữa cũng được, không phải là tham ăn, chỉ do
thói quen và để giữ sức khỏe mà thôi.
-
Ông Duy Ma Cật muốn làm lợi ích giúp cho hàng Thanh Văn được
biết mùi vị giải thoát bèn nhập chánh định, dùng sức thần thông
hiện bày cho đại chúng thấy rõ cảnh giới phương trên có nước
Phật tên là Chúng Hương, Ðức Phật hiệu là Hương Tích, nước ấy
không có Thanh Văn và Bích Chi Phật, chỉ có Bồ Tát thanh tịnh
được Phật nói pháp cho nghe. Tất cả nhà lầu, vườn hoa, ruộng
đất, cơm nước đều do chất hương thơm tạo thành. Ông Duy Ma Cật
hóa phép ra một vị Bồ Tát và sai bay lên nước Chúng Hương xin
cơm thơm về cho mọi người ăn.
-
Nếu cứ theo nghĩa đen, chữ đâu nghĩa đó, thì ở phương trên có
nước Chúng Hương, có Phật Hương Tích, có các Bồ Tát, có cơm
thơm, không có hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật. Theo nghĩa bóng
thì các Thanh Văn cần chuyển tâm niệm hẹp hòi cầu pháp nhỏ biến
thành Tâm Bồ Ðề, bỏ vật chất thế gian để được của báu xuất thế
gian, bỏ giường ghế để được ngồi tòa sư tử, bỏ cơm gạo thường để
được ăn cơm thơm Chúng Hương, bỏ lòng cầu Niết Bàn cho riêng
mình để phát tâm Bồ Ðề cầu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hành
Bồ Tát Ðạo lợi ích chúng sinh.
-
Nước Chúng Hương thanh tịnh thơm tho nhẹ nhàng vì được tạo thành
bằng các hương thơm, trái với cõi Ta Bà nặng nề nhơ uế vì do vật
chất làm ra. Cõi Ta Bà có Thanh Văn và Bích Chi Phật còn ham
pháp nhỏ tu theo Tiểu Thừa, được ít cho là đủ, còn nước Chúng
Hương chỉ có hàng Bồ Tát thanh tịnh được Phật dạy bảo, ý kinh
muốn đưa ra sự so sánh hai cõi để chuyển tâm hàng Nhị Thừa hướng
về Nhất Thừa Phật Đạo.
-
Chỗ khéo léo của Kinh này là không muốn làm hàng Thanh Văn hổ
thẹn vì lỡ ham pháp Tiểu Thừa, nên Bồ Tát Văn Thù nói đỡ: “Chớ
nên khinh người chưa học”. Nếu làm quý vị Thanh Văn xấu hổ quá
thì họ sẽ bỏ đi rất uổng nên Bồ Tát Văn Thù phải nói khéo để gỡ
danh dự cho họ, rồi phương tiện hướng dẫn vào Phật Ðạo. Trong
Kinh Pháp Hoa, khi Phật thuyết giáo lý Ðại Thừa, quy ba thừa về
một thừa, có năm ngàn Tỳ Kheo bỏ đi. Nhưng ở đây, Ngài Văn Thù
cố giúp hàng Thanh Văn chuyển tâm theo Ðại Thừa. Cũng một ý đó,
Ðức Phật Hương Tích căn dặn các Bồ Tát nước Chúng Hương phải tạm
giấu thân hương thơm tho tốt đẹp, chớ để chúng sinh cõi Ta Bà
sinh tâm mê đắm và tự hổ thẹn. Vì sao? Ðức Phật muốn hóa độ
những người ưa pháp nhỏ nên hiện ra cõi Ta Bà ô trược hầm hố xấu
xa, chứ mười phương cõi nước đều như hư không, vô phân biệt. Ðức
Phật biết rành tâm lý, không muốn hàng Thanh Văn buồn thẹn mà
mong họ thấy cõi Phật Chúng Hương đẹp đẽ mà khởi lòng tu theo
Ðại Thừa.
-
Phật Hương Tích lấy cái bát ở nước Chúng Hương đựng đầy cơm thơm
trao cho Hóa Bồ Tát, vị này cùng chín trăm vạn Bồ Tát ở nước
Chúng Hương biến hình, trong khoảnh khắc về đến nhà ông Duy Ma
Cật. Ông này hóa hiện ra chín trăm vạn tòa sư tử để mời các Bồ
Tát ngồi. Vị Hóa Bồ Tát đem bát cơm thơm dâng lên ông Duy Ma
Cật, mùi thơm xông khắp thành Tỳ Xá Li và cả cõi tam thiên đại
thiên thế giới.
-
Chín trăm vạn Bồ Tát ngồi trên tòa sư tử trong nhà ông Duy Ma
Cật mà không thấy chật hẹp vì đây là nói về Bản Thể dung thông
vô ngại, vượt qua mọi hình tướng vật chất nên không có rộng chật
gì cả, mười phương thế giới nằm trong hạt cải mà vẫn hiện đủ núi
non sông biển. Vì không có vật chất nên không chướng ngại. Thí
dụ: chụp hình mặt trăng vào trong tấm ảnh nhỏ xíu mà phong cảnh
mặt trăng hiện ra đầy đủ. Chúng ta nghĩ tới quê hương thì hình
ảnh núi đồi sông ngòi nhà cửa hiện ra trong tâm thức, những hình
ảnh đó đều dung thông vô ngại.
-
Trưởng Giả Chủ là người đứng đầu các vị trưởng giả làm chủ tể
cai trị nhân dân trong thành. Nguyệt Cái là tên ông ta, mà cũng
có ý nghĩa là cái lọng (bảo cái) hình tròn như mặt trăng dùng để
che mưa nắng bụi bậm không làm khó chịu bậc tôn quý. Trưởng Giả
Chủ Nguyệt Cái đem theo tám vạn bốn ngàn người đến đảnh lề các
Bồ Tát và đại đệ tử, là có ý tượng trưng cho việc các chúng sinh
đã phát tâm quy y Tam Bảo, tuân thủ giáo lý Ðại Thừa. giáo lý
này tròn trặn đầy đủ, hoàn toàn viên mãn, có công năng che chở
chúng sinh khỏi bị nhiễm ô, ví như cây lọng báu che các vị Vua
quan quyền quý.
-
Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo Ngài Xá Lợi Phất và các đại đệ tử
Thanh Văn lấy cơm thơm mà ăn, dùng cơm vị cam lồ của Như Lai do
đại bi huân tập, đừng đem ý có hạn lượng mà ăn thì không tiêu
được. Có các Thanh Văn khác nghĩ rằng cơm này ít lắm mà đại
chúng ngưởi nào cũng phải ăn. Làm sao cho đủ ?
-
Ðây là các vị Thanh Văn còn chấp tướng, phân biệt cơm ít người
nhiều, còn ông Duy Ma Cật đứng về Thể Tánh mà bảo: đừng đem ý có
hạn lượng mà ăn thời không tiêu được. Vị Hóa Bồ Tát cũng nói:
Chớ đem trí hẹp đức nhỏ của Thanh Văn mà so lường phước huệ vô
lượng của Như Lai.
-
Rõ ràng là đoạn này muốn đưa người đang tu theo giáo lý Tiểu
Thừa bước sang Ðại Thừa, muốn hướng dẫn hàng Thanh Văn vào Bồ
Tát Ðạo. Ðừng có ý hạn lượng phân biệt thì cơm mới tiêu, thì mới
kham được pháp lớn, thì mới bỏ tướng trạng mà nhập Bản Thể Chân
Như vô cùng vô tận. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, ngườì ăn no đủ
mà cơm vẫn còn, thân thể nhẹ nhàng vui vẻ, các lỗ chân lông
thoảng ra mùi hương thơm.
-
Có một bát cơm mà tất cả chúng hội mấy trăm vạn người ăn no đủ
mà vẫn còn, người ăn lại cảm thấy thân thể nhẹ nhàng vui vẻ, các
lỗ chân lông thoảng ra mùi hương thơm thì thật là huyền diệu
nhiệm mầu, nhất định không phải là loại cơm gạo vật chất để nuôi
thân, mà là cơm gạo tinh thần để nuôi tâm, trưởng dưỡng phát huy
Tâm Bồ Ðề. Vì không phải vật chất nên không có hạn lương, vì
thuốc tâm linh nên ảnh hưởng lan rộng cao xa, mùi vị của Đạo
thấm vào tâm hồn khiến mọi người cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát,
lâng lâng thoát tục, mình được hưởng Pháp vị rồi lại muốn đem
Pháp vị cho người khác, nên các lỗ chân lông thường ra mùi hương
thơm, các loài chúng sinh khác cũng được ngửi mùi hương đó.
Người xưa có hai câu thơ để diễn tả Ðạo vị :
-
Quế hương bất viễn thư hương viễn,
-
Thế vị vô như Ðạo vị trường.
-
Nghĩa là:
-
- Mùi hương của quế không thoảng xa bằng mùi thơm của sách vở,
vị ngon ngọt của đời không kéo dài lâu xa bằng mùi vị của Ðạo
Ðức.
-
Cơm thơm của Phật Hương Tích ban cho chúng hội trong nhà ông Duy
Ma Cật chính là Pháp Thực, là Thiền Duyệt Thực là món ăn tinh
thần để nuôi dưỡng phần tâm linh, chúng ta nghe một bài pháp say
sưa quên đói, ngồi thiền cảm thấy no đủ sung sướng, mà Pháp và
Thiền thì rộng rãi vô cùng, bao nhiêu người nghe, người tu cũng
đầy đủ, không thiếu. Pháp, Thiền, Ðạo, sách vở kinh điển... đều
là những món ăn tinh thần cần thiết giúp người tu mở mang trí
huệ, tự giác giác tha. Mình được ăn rồi, nếm rồi, nghe rồi thì
phải mời người khác cùng hưởng Pháp vị như mình.
-
Ðoạn kinh sau đây so sánh lối nói pháp ở hai cõi Chúng Hương và
Ta Bà. Cõi Chúng Hương ở trên cõi Ta Bà cách xa 42 số cát sông
Hằng cõi Phật, nhẹ nhàng siêu việt hơn cõi Ta Bà nhiều, cho nên
Ðức Phật Hương Tích không cần dùng ngôn ngữ văn tự để nói, mà
chỉ dùng các mùi hương thơm khiến các Trời người vâng giữ luật
hạnh (giữ gìn giới luật, không làm việc ác, chỉ làm hạnh lành).
Các Bồ Tát cõi đó chỉ việc ngồi dưới cây hương, ngửi mùi hương
thơm mầu nhiệm là được Tam Muội Nhất Thiết Ðức Tạng, nghĩa là
được chánh định đầy đủ tất cả mọi công đức. Ý kinh muốn nói
chúng sinh cõi Chúng Hương nghiệp nhẹ nên chi cần ngửi mùi hương
là phát tâm tu hành. Tâm Phật và chúng sinh dễ dàng cảm thông.
-
Còn chúng sinh ở cõi Ta Bà thì nghiệp nặng, cang cường khó giáo
hóa, cứng đầu cứng cổ, nên Ðức Phật Thích Ca phải phương tiện
dùng lời nói cứng rắn mạnh mẽ để điều phục họ. Ðây là các phương
pháp giáo hóa khác nhau mà chư Phật áp dụng tùy từng cõi. Chúng
sinh dễ dạy thì dùng phương pháp nhẹ nhàng dịu ngọt, chúng sinh
khó dạy thì dùng phương pháp oai dũng nặng nề như trách mắng đe
dọa, nhưng tất cả mọi phương pháp đều cùng một mục đích là chỉ
đường dẫn lối chúng sinh về nẻo giác. Ở cõi Ta Bà uế trược, Ðức
Phật cho thấy có ba cõi sáu đường, có luật nhân quả luân hồi chi
phối, để chúng sinh sợ hãi nhàm chán, rồi Ngài dạy quy y giữ
giới, làm lành lánh đữ, điều phục thân miệng ý, so sánh phân
biệt tội phước, hữu lậu với vô lậu, thế gian với Niết Bàn... Tuy
biết rằng phân biệt như vậy là không đúng với Chân Lý Bình Ðẳng
Nhất Như, nhưng Ðức Thế Tôn ẩn cái sức tự tại vô lượng của Ngài
mà dùng phương tiện tùy theo sở thích của người nghèo hèn để độ
thoát chúng sinh: Phật biết chúng sinh ưa gì thì cho nấy, lúc
đầu chúng ưa pháp nhỏ, được Hữu Dư Y Niết Bàn đã cho là đủ, nay
đã đến thời cơ đem pháp lớn dạy người tu hành tiến tới chỗ giác
ngộ rốt ráo. Kinh Pháp Hoa đưa ra thí dụ Hóa Thành là cùng một ý
nghĩa như vậy.
-
Vì chúng sinh cõi Ta Bà phước mỏng nghiệp dầy, khó bảo khó dạy,
nên các Bồ Tát phải dùng sức phương tiện chịu khổ sở nhẫn nhục,
dùng lòng đại bi vô lượng thị hiện sinh vào cõi này, ẩn giấu
thân tướng to lớn cao đẹp và hiện ra thân hình bé nhỏ xấu xa,
thật là mộl sự hy sinh rất lớn lao mà chỉ các Ðại Bồ Tát mới làm
được. Tuy nhiên, các Bồ Tát ở cõi này làm lợi ích cho chúng sinh
trong một đời còn hơn trăm ngàn kiếp tu hành ở các cõi khác, vì
sao? Vì chúng sinh cõi Ta Bà có nhiều thói hư tật xấu để Bồ Tát
dạy dỗ, chúng sinh các cõi khác không có tật xấu thì Bồ Tát lấy
ai mà cứu độ? Ðúng vậy, có người nghèo đói thì mình mới có cơ
hội bố thí, có người giận dữ thì mình mới có cơ hội tu nhẫn
nhục, có người loạn động thì mình mới có cơ hội dạy họ tu thiền
định, có kẻ ngu si thì mình mới có cơ hội khuyên họ tu trí huệ,
có người ưa pháp Tiểu Thừa thì mình mới có dịp đem giáo lý Ðại
Thừa ra thuyết giảng... còn ở các cõi Tịnh Ðộ khác, dân chúng
đều thanh tịnh tinh tấn tu hành thì các Bồ Tát không có duyên
lành giáo hóa, thiếu mục tiêu làm việc lợi tha.
-
Bồ Tát cần nương chúng sinh để được sinh về cõi Tịnh Ðộ, cần hóa
độ chúng sinh để hoàn mãn nguyện lớn tiến lên quả vị Phật. Muốn
vậy, các Bồ Tát cần thành tựu tám pháp lành:
-
1) Làm lành mà không mong báo đáp (vô cầu).
-
2) Gánh chịu khổ não cho chúng sinh (từ bi).
-
3) Ban công đức cho chúng sinh (hỷ, xả, lợi tha).
-
4) Dưới khiêm nhường chúng sinh, trên cung kính Bồ Tát (trên
kính, dưới nhường, hạ mình đối đãi bình đẳng, không ngăn ngại).
-
5) Cầu học những điều chưa biết (tiến tu, không nghi ngờ).
-
6) Không chống trái với hàng Thanh Văn (không khinh chê người tu
kém, dùng phương tiện dắt dẫn họ tiến thêm).
-
7) Không ganh ghét tật đố, không khoe mình chê người (điều phục
tâm).
-
8) Trách mình, tha thứ cho người (hướng nội tự tu, hướng ngoại
lợi tha), nhất tâm cầu công đức (hướng về giác ngộ giải thoát,
không mong phước đức thế gian).
-
Ðây là tám phương pháp mà các Bồ Tát và tất cả những ai tu hạnh
Bồ Tát Ðại Thừa cần phải thực hành, tựu trung vẫn là phá ngã
chấp và pháp chấp, phát triển từ bi hỷ xả, lợi tha, không khinh
chê kẻ có tội hay người tu còn kém, thượng cầu Phật Ðạo, hạ hóa
chúng sinh, điều phục tâm mình, chỉ tự trách mà còn tha thứ cho
người, chỉ nhìn lỗi mình không thấy lỗi người, có được chút công
đức gì thì chia xẻ cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật Ðạo.
-
Sau khi được nghe ông Duy Ma Cật và Ngài Văn Thù nói pháp mầu,
trong đại chúng có trăm ngàn Trời người phát tâm vô thượng chánh
đẳng chánh giác, những hạng Trời người này trước chỉ tu phước
hoặc mong cầu Niết Bàn của Tiểu Thừa, nay tỉnh ngộ phát tâm tu
theo Ðại Thừa.
-
Mười ngàn Bồ Tát chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn: Các Bồ Tát mới
phát tâm được nghe Chánh Pháp cao siêu nhiệm mầu, trí huệ sáng
soi, diệt trừ được vi tế vô minh, chứng quả vô sinh bất thối
chuyển, thẳng tới quả vị Phật.
-
Mật ý của phẩm này là đề cao sức oai thần của các vị Ðại Bồ Tát
mà từ trước các hàng Thanh Văn, Trời người chưa thấy chưa biết,
sự hiểu biết của họ còn nông cạn, như những người mù sờ voi, chỉ
biết một phần sự thật mà thôi. Ông Duy Ma Cật xin cơm thơm ở
nước Chúng Hương bên trên đem về cho hàng Thanh Văn, Trời người
ăn, có ý nghĩa là đem Chân Lý cao siêu huyền diệu tột cùng ra
chỉ dạy để dắl dẫn người tu tiểu Thừa hoặc tu phước, nay chuyển
sang Ðại Thừa, hướng về giác ngộ và giải thoát cho tất cả chúng
sinh. Nhờ cơm mà chúng sinh no, nhờ pháp Ðại Thừa mà chúng sinh
được giải thoát.
- --o0o--
|
|