|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
(Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận)
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn -
USA
1991
-
11- PHẨM HẠNH BỒ TÁT
-
-
Khi đó, Ðức Phật đang nói pháp ở vườn cây Am La, vườn ấy bỗng
nhiên rộng rãi trang nghiêm, tất cả đại chúng trong pháp hội đều
trở thành sắc vàng. Lời kinh muốn diễn tả tâm thức của đại chúng
đã rộng mở sẵn sàng đón nhận tư tưởng Ðại Thừa. Người Ấn Ðộ có
mầu da nâu hoặc đen, nay chuyển sang da mầu vàng là mầu đẹp đẽ
tôn quý, vườn cây trở nên rộng rãi trang nghiêm, ám chỉ sự hoán
chuyển nội tâm biến hiện ra bên ngoài, trong tốt thì ngoài cũng
đẹp, tinh thần sáng suốt thì tướng trạng vật chất bề ngoài cũng
oai nghiêm, Chánh Báo và Y Báo đều tốt đẹp.
-
Ông A Nan thấy điềm lành này liền hỏi và được Phật giải thích
đây là ông Duy Ma Cật, Ngài Văn Thù cùng đại chúng phát tâm muốn
đến đảnh lễ cúng dường Ðức Thế Tôn. Câu kinh này muốn nói là sau
khi được ông Duy Ma Cật khai ngộ giáo lý Ðại Thừa, tất cả đại
chúng đều phát tâm hướng về chỗ giác ngộ hoàn toàn, giải thoát
hoàn toàn, chứ không ham phước báo cõi Trời, cõi người, không
mong những địa vị tu chứng cục bộ từng phần của hàng Nhị Thừa
nữa. Họ đã được nghe Chánh Pháp rồi, nay mong được đảnh lễ cúng
dường Phật, họ đã được chỉ con đường giác ngộ, nay mong tiến
bước đạt tới Chân Lý.
-
Ông Duy Ma Cật dùng sức thần thông đem tất cả đại chúng và các
tòa sư tử để trên tay hữu đi đến chỗ Phật, tất cả cúi đầu lễ
dưới chân Phật rồi đứng qua một bên. Theo phong tục tập quán Ấn
Ðộ thời bấy giờ, để tỏ lòng tôn kính Phật hoặc một vị giáo chủ,
các đệ tử cúi đầu đảnh lễ, trán hai tay hai chân phải chạm đất
(ngũ thể đầu địa), đi quanh bên hữu bảy vòng, rồi chắp tay đứng
sang một bên. Sau đó hai bên mới bắt đầu thưa hỏi và trả lời. Ở
đây, Ðức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất là vị đại đệ tử có trí huệ
bậc nhất trong hàng Thanh Văn, có thấy thần lực của Bồ Tát Ðại
Sĩ Duy Ma Cật chăng? Ngài Xá Lợi Phất tán thán oai lực tự tại đó
không thể nghĩ bàn được. Rồi đến ông A Nan, vị đệ tử nổi tiếng
là đa văn đệ nhất trong hàng Thanh Văn, ngửi thấy mùi hương thơm
từ xưa chưa từng có, không biết là mùi hương gì ? Ngài Xá Lợi
Phất nói lỗ chân lông của chúng tôi cũng có mùi hương thơm đó,
do được ăn cơm thơm do ông Duy Ma Cật xin ở cõi Chúng Hương về,
nên có mùi thơm như vậy. Mùi thơm này kéo dài cho đến khi cơm đó
tiêu, nghĩa là khi hàng Thanh Văn phát tâm tu theo Ðại Thừa,
được vào chánh vị, giải thoát, được vô sinh nhẫn, chỉ còn một
đời là được thành Phật. Cơm thơm này chính là giáo lý Nhất Thừa
Phật Ðạo, có công năng đưa hàng Thanh Văn tới quả vị Phật, ví
như thuốc tốt trừ được các chứng nan y gây bệnh nơi thân, diệt
trừ các phiền não gây khổ trong tâm, xé màn vô minh đưa chúng
sinh ra khỏi luân hồi sinh tử.
-
Ðây là pháp môn phương tiện tu hành đặc biệt của chúng sinh cõi
Chúng Hương chỉ ăn cơm thơm, ngửi mùi hương ngồi dưới cây hương
mà được tam muội đầy đủ công đức của Bồ Tát. Còn ở cõi Ta Bà
cùng các cõi khác thì chư Phật dùng mọi phương tiện tùy căn cơ,
tùy hoàn cảnh địa phương mà làm Phật sự, dẫn dắt chúng sinh đi
trên đường chân chánh tu hành. Có cõi lấy ánh sáng của Phật hoặc
thân Phật mà làm Phật sự, có cõi lấy Bồ Tát, lấy cây bồ đề, lấy
cơm ăn, lấy mộng huyễn, lấy tiếng nói văn tự, có cõi dùng thanh
tịnh vắng lặng... mà làm Phật sự. Tóm lại, tất cả mọi oai nghi
đi đứng ngồi nằm, các việc thi vi nhỏ nhặt của chư Phật đều là
Phật sự cả. Ðây là ý nghĩa câu: Tất cả các việc đều là việc
Phật, tất cả các pháp đều là Phật Pháp. Mỗi việc, mỗi pháp, dù
thuận dù nghịch, nếu khéo dùng đúng thời, đúng căn cơ đều có tác
dụng ích lợi để giáo hóa chúng sinh.
-
Cũng có khi Phật dùng các ma chướng phiền não để làm Phật sự,
đây là phương pháp dùng nghịch cảnh để thử thách người tu hành
có nhẫn nhục kiên gan bền chí không? Bồ Tát cần phát tâm thanh
tịnh vô phân biệt mà làm Phật sự, dù thấy cõi Phật nghiêm tịnh
cũng không mừng, không ham muốn kiêu mạn; dù thấy cõi Phật bất
tịnh cũng không lo không ngại không chán, lúc nào cũng ngợi khen
công đức chư Phật chưa từng có, bình đẳng, chỉ vì giáo hóa chúng
sinh tâm tính khác biệt mà phương tiện hiện ra các cõi Phật
không đồng.
-
Ba danh từ Tam Miệu Tam Phật Ðà, Ða Ðà A Dà Ðộ và Phật Ðà là để
tôn xưng những vị đã hoàn toàn giác ngộ và giải thoát, nghĩa là
đắc quả Phật. Tam Miệu Tam Phật Ðà nói cho đủ là A Nậu Ða La Tam
Miệu Tam Phật Ðà, phiên âm chữ Phạn Anudhara Samma Sam Buddha,
dịch nghĩa là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vô Thượng là
không ai cao hơn, Chánh Ðẳng là có địa vị chân chánh nhất, để
phân biệt với hàng Duyên Giác mới giác ngộ đẳng phần, từng phần
(phần giác), Chánh Giác là giác ngộ, hiểu biết sáng suốt chân
chánh, để phân biệt với hàng Thanh Văn hãy còn hiểu biết lệch
lạc (thiên giác). Ngoài ra còn hai nghĩa nữa là Chánh Biến Giác
và Chánh Biến Tri: hiểu biết chân chánh cùng khắp các pháp, mọi
sự mọi vật.
-
Ða Ðà A Dà Ðộ, phiên âm chữ Phạn Tathagata, dịch nghĩa là Như
Lai, Như Như Bất Ðộng, Lai Thành Chánh Giác, là người giữ được
tâm không động, không từ đâu đến, không đi đâu, đã được giác ngộ
chân chánh. Như Lai là một trong mười đanh hiệu để tôn xưng Ðức
Phật.
-
Phật Ðà, phiên âm chữ Phạn Buddha, dịch nghĩa là Giác Giả, là
người đã hoàn toàn giác ngộ, hiểu biết Chân Lý tuyệt đối. Chúng
ta thường đọc là Phật hay Bụt.
-
Ðức Thích Ca tán thán công đức trí huệ của mười phương chư Phật
vô ngại không thể nghĩ bàn. Thấy oai đức của chư Phật lớn lao
như vậy, thấy giáo lý Ðại Thừa cao siêu nhiệm mầu nên ông A Nan
đem lòng sợ hãi, hổ thẹn, bị nhiếp phục, kbông dám tự nhận là đa
văn nữa. Ða văn là nghe nhiều, nhớ kỹ, học rộng, ông A Nan tuy
đa văn nhưng chưa phát tâm tu hành rốt ráo nên chưa chứng quả A
La Hán, trong khi đó nhiều đệ tử khác của Phật, tuy tài học kém
ông A Nan nhưng nhờ quyết tâm tu tập công phu nên đã chứng quả A
La Hán.
-
Ðoạn này nói riêng về ông A Nan nhưng ám chỉ những hàng Thanh
Văn chỉ ham học rộng nghe nhiều mà không chịu tu hành các pháp
môn thù thắng. Ông A Nan hối hận tự thú lỗi mình, hứa từ nay xin
chừa không dám nhận là đa văn, không chấp vào việc chỉ học mà
không tu. Ðức Phật an ủi: “Chớ khởi tâm thối lui nản chí. Ta nói
ông đa văn hơn hết trong hàng Thanh Văn, chứ không phải đối với
hàng Bồ Tát. Chư Bồ Tát có trí huệ biện tài, công phu thiền định
rộng sâu không thể nghĩ bàn, hàng Thanh Văn không sao bằng được.
Hãy để riêng việc Bồ Tát ra, ông Cư Sĩ Duy Ma Cật đây hiện bày
sức thần thông trong một lúc mà tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi
Phật trải trăm ngàn kiếp tận lực biến hóa đều không làm được.”
-
Đức Phật đề cao hàng Bồ Tát là để khuyến khích hàng Thanh Văn bỏ
chí hèn kém, được chút ít cho là đủ, nay phải phát tâm tu hành
thêm nữa, tiến tới quả vị Bồ Tát và Phật. Lúc đó các Bồ Tát ở
cõi Chúng Hương tự hối đã khinh thị cõi Ta Bà xấu xa thấp kém,
nay biết là do Phật phương tiện làm ra vậy để hợp với căn cơ
chúng sinh, nay cúi xin Phật dạy cho một pháp để đem về cõi
Chúng Hương tu hành, nghĩ nhớ đến Phật Thích Ca, ví như hiện
thời chúng ta đi du lịch nơi xa, mua quà kỷ niệm đem về để nhớ
đến nơi vừa đi thăm. Ðức Thích Ca liền dạy pháp môn Tận, Vô Tận
Giải Thoát.
-
Tận là pháp hữu vi, Vô Tận là pháp vô vi. Không tận hữu vi,
không trụ vô vi thì được giải thoát.
-
Các pháp hữu vi là các việc làm sắc tướng, còn có ý mong cầu,
thấy có việc làm, có pháp môn tu, có quả vị chứng. Các pháp vô
vi là các việc làm thanh tịnh, không còn chấp sắc tướng, làm mà
không thấy làm, vô cầu, vô chứng, vô đắc. Thông thường thì người
tu hành lìa bỏ các pháp hữu vi và tu theo các pháp vô vi. Nhưng
ở đây, các Bồ Tát không tận hữu vi, là có ý dạy người tu hành
đừng khởi tâm phân biệt, cứ an nhiên làm tất cả mọi việc lành
tốt để cầu nhất thiết trí, hành các pháp môn để cứu giúp chúng
sinh. Ðó là đứng về phần tướng, không bỏ qua một việc tốt nào mà
không làm. Còn không trụ vô vi là tuy tu ba môn Không, Vô Tướng,
Vô Tác mà không lạc vào chỗ chấp không; tuy chứng vô sinh mà vẫn
không chấp có tu có chứng. Tuy biết mọi sự mọi vật vô thường mà
vẫn làm các việc lành, tuy biết cuộc đời là khổ mà vẫn không
ghét sinh tử, tuy biết chúng sinh vô ngã mà vẫn dạy dỗ dắt
dìu... Ðây là người đã kiến tánh, nhưng vẫn không lìa tướng, vẫn
tu vẫn hành, lìa hai bên chấp có chấp không, giữ vững lý trung
đạo. Ðứng về tướng, chẳng chấp có nhưng không bỏ một việc phước
nhỏ; đứng về tánh, chẳng chấp không mà vẫn làm các hạnh lành, tu
mọi pháp thiện. Ðức Phật thường răn dạy các đệ tử đừng khinh chê
phước nhỏ mà không làm, một bữa nọ, trên đường đi thuyết pháp,
Phật dừng chân xỏ kim giùm một bà lão kém mắt, nói vài lời mộc
mạc khuyên bảo mấy em nhỏ chăn trâu; cộng nhiều phước nhỏ thành
phước lớn, nếu chê phước nhỏ không làm, lấy đâu phước lớn, nhưng
làm mọi việc lành mà không chấp, không mong cầu thì mới là tốt.
Tuy quán Không, biết mọi sự mọi vật là giả huyễn, nhưng không vì
vậy mà chẳng chịu làm gì, thấy việc lành là làm, thấy ai cần là
giúp, đó là lòng Ðại Bi của chư Bồ Tát. Làm được mọi việc lợi
ích chúng sinh mà lòng không chấp trước, không mong cầu, đó gọi
là Bồ Tát không tận hữu vi, không trụ vô vi. Ðó gọi là pháp môn
Tận, Vô Tận Giải Thoát.
-
Các Bồ Tát nước Chúng Hương nghe Phật nói pháp này rồi hết sức
vui mừng, đem các hoa báu đủ mầu rải khắp tam thiên đạì thiên
thế giới cúng dường Phật, kinh Pháp này cùng các Bồ Tát, lễ Phật
tán thán rồi bỗng nhiên biến trở về cõi Chúng Hương. Các vị Bồ
Tát này được Ðức Phật Thích Ca khai ngộ cho, bỏ lòng kiêu mạn,
hết tâm khinh chê lớn nhỏ sạch uế, rải hoa cúng dường Tam Bảo
Phật Pháp Tăng tỏ lòng quy y kính ngưỡng, trở về cõi Chúng
Hương, nghĩa là trở về quê cũ, trở về Bản Tâm thanh tịnh vô phân
biệt.
-
Ðoạn kinh này chỉ dạy người tu đừng quá thiên về Lý mà bỏ Sự,
đừng quá nghiêng về Tánh mà quên Tướng, vẫn làm các Sự Tướng mà
không rời Lý Tánh, thì công phu tu hành mới gọi là viên dung,
sớm thành Phật Ðạo. Nhưng sau khi đã thành tựu mọi công đức, dứt
trừ vi tế vô minh, Bồ Tát sắp bước vào cửa Phật, đưa mắt nhìn
xuống cõi trần thấy chúng sinh còn đang ngụp lặn trong bể khổ
trầm luân mong được cứu vớt, Ngài ung dung tự tại quay gót trở
lại trần gian với nụ cười đầy từ bi hỷ xả, phát nguyện lớn độ
hết chúng sinh rồi Ngài mới thành Phật. Vô ngã lợi tha, quên
mình vì người, đó là Hạnh Bồ Tát. Do đó phẩm này được đặt tên là
Hạnh Bồ Tát.
- --o0o--
|
|