|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
(Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận)
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn -
USA
1991
-
12- PHẨM THẤY PHẬT A SÚC
-
-
A Súc là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Bất Ðộng. Phật A Súc là Pháp
Thân chẳng sinh diệt, chẳng tới lui, vắng lặng thường còn, chẳng
hề động chuyển, nên gọi là Bất Ðộng.
-
Ðức Thế Tôn hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Muốn thấy Như Lai thì lấy
gì quán sát?
-
Như Lai, theo nghĩa hẹp là Ðức Phật Thích Ca hoặc chư Phật mười
phương, nghĩa rộng là cái gì như như bất động, không sinh không
diệt, không tới không lui, là Bản Thể, là Thật Tướng, là Pháp
Tánh của mọi sự mọi vật, là nguồn gốc của mọi loài từ đó mà sinh
ra, là cái Không sinh ra cái Có, là Chân Lý cao siêu tuyệt vời
huyền diệu vô cùng vô tận.
-
Trong Kinh Kim Cang có câu: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng,
nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai, nghĩa là những
vật gì có hình tướng đều là giả dối hư huyễn, nếu thấy được cái
Phi Tướng tức tướng Không nằm ẩn trong hình tướng bên ngoài thì
thấy được Như Lai, thấy Chân Lý.
-
Ở đây, ông Duy Ma Cật cũng nói giống như vậy: Muốn thấy Như Lai
phải quán Thật Tướng, lìa phân biệt hư vọng, rời hai bên đối
đãi, phá năm ấm bốn đại, không bờ này bờ kia, chẳng dòng sông
phiền não, không sạch không nhơ, không lớn không nhỏ, chẳng sinh
chẳng diệt, chẳng trí chẳng ngu, chẳng thủ chẳng xả, chẳng dùng
lời nói diễn tả được, đó là quán sát chân chánh (chánh quán),
nếu quán khác thì gọi là tà quán.
-
Ngài Xá Lơi Phất, tùy theo lòng nghi ngờ chưa hiểu biết rốt ráo
của hàng Thanh Văn, hỏi ông Duy Ma Cật ở đâu chết rồi sinh nơi
đây? Hàng Thanh Văn chưa nắm được liễu nghĩa của Như Lai chẳng
đến chẳng đi, chẳng sinh chẳng diệt.. nên vẫn còn chấp có chỗ đi
và có nơi đến. Ông Duy Ma Cật bèn dùng pháp tu chứng quả và
người huyễn hóa sinh ra làm thí dụ cho Ngài Xá Lợi Phất dễ
hiểu.
-
Ðứng về hình tướng thì có sinh có diệt, nhưng đứng về Thể Tánh
thì sinh diệt là pháp giả dối huyễn hóa. Chết là tướng bại hoại
của pháp hư dối để rồi lại tiếp tục sinh hóa, mà sinh cũng là
tướng tương tục của pháp hư dối mà thôi, chẳng có gì thật là
sinh, thật là diệt cả. Ví như nước và sóng. Khi lặng là nước,
khi động là sóng, hết động trở lại là nước, trước sau vẫn là
nước, động tịnh là những hiện tượng giả huyễn tạm thời.
-
Ðến đây Ðức Phật e hàng Thanh Văn lạc vào chỗ chấp không rồi
sinh hoang mang mờ mịt nên Ngài đứng về tướng trạng mà bảo Ngài
Xá Lợi Phất: ông Duy Ma Cật vốn ở nước Diệu Hỷ của Phật Vô Ðộng,
chết rồi sinh nơi đây.
-
Danh từ chết là Ðức Thế Tôn phương tiện dùng cho hàng Thanh Văn
dễ hiểu, chứ thật ra thì ông Duy Ma Cật vì lòng từ bi thương xót
chúng sinh cõi Ta Bà mà thị hiện ở cõi này để hóa độ, ông đã ra
khỏi vòng luân hồi sinh tử, không còn sống chết nữa. Ngài Xá Lợi
Phất vẫn còn chấp có hai cõi thanh tịnh (Diệu Hỷ) và nhiều oán
hại (Ta Bà), ông Duy Ma Cật phải lấy thí dụ mặt trời đem ánh
sáng soi chiếu nơi tối tăm. Bồ Tát vì bổn hoài lợi tha nên phải
thị hiện ở nơi nhơ uế nhiều đau khổ để cứu giúp chúng sinh,
nhưng không hề nhiễm trần cấu bất tịnh, ví như hoa sen mọc trong
bùn mà chẳng ngại hôi tanh, chuyển chất liệu uế trược của bùn
thành mùi thơm thanh khiết của hoa sen, tung rải hương thơm khắp
nơi.
-
Nghe lời Ðức Thích Ca nói xong, tất cả đại chúng đều khát ngưỡng
mong được thấy nước Diệu Hỷ, Phật Vô Ðộng và các hàng Bồ Tát,
Thanh Văn của nước đó. Tuân theo lời Ðức Thích Ca dạy và muốn
cho đại chúng cõi Ta Bà thấy được cõi Diệu Hỷ, tượng trưng cho
Bản Thể, Chân Lý cao siêu mầu nhiệm, ông Duy Ma Cật liền nhập
tam muội, nghĩa là vào chánh định, hiện sức thần thông mang nước
Diệu Hỷ để vào cõi Ta Bà.
Chư
vị Bồ Tát và những người có thần thông ở nước Diệu Hỷ ý thức
đươc việc di chuyển này, còn các người chưa có thần thông thì
không hay biết gì cả. Ðó là nghĩa làm sao?
-
Ví như quả đất tự quay và chạy quanh mặt trời với một tốc độ rất
mau, nhưng chúng ta không ý thức được việc chuyển động đó, vì
chúng ta ngu muội không có trí huệ, chúng ta sống kẹt trong bầu
khí quyển bao bọc mịt mùng nên cứ tưởng là quả đất đứng im; còn
đối với các nhà khoa học có trí thông minh sáng suốt có những
dụng cụ tinh vi tối tân, hoặc đối với các bậc Thánh siêu phàm
thì rõ ràng quả đất chuyển động thật mau. Các Ngài đã vượt lên
trên sự hiểu biết tầm thường của thế gian; nhờ trí huệ sáng
suốt, các ngài đã thấy được sự thật, nhưng sự thật đó khó tin
khó hiểu, nói ra ít ai chịu nghe. Giống như dưới thời Vua Tự
Ðức, ông Nguyễn Trường Tộ đi sang Âu Châu về tâu Vua những sự
phát minh khoa học như đèn điện, tàu hỏa,... Vua và triều đình
không tin, cho là nói dối. Chúng ta cũng vậy, sự hiểu biết còn
nông cạn hẹp hòi, những gì mắt thấy tai nghe mới tin, còn những
gì siêu việt thì khăng khăng cố chấp cho là huyền hoặc, giống
như ếch ngồi đáy giếng đâu biết bầu trời bao la.
-
Nhân dân nước Diệu Hỷ không có thần thông thì không hay biết sự
việc nhiệm mầu, sự biến chuyển siêu nhiên của nước Diệu Hỷ hòa
nhập vào cõi Ta Bà, toàn thể cõi nước của họ di động mà họ chẳng
hay chẳng biết gì cả, chỉ có các Bồ Tát, Thanh Văn cùng các Trời
người có thần thông thì biết rõ. Nước Diệu Hỷ được đặt vào cõi
Ta Bà mà không thêm không bớt, còn cõi Ta Bà cũng không chật
hẹp, vẫn y nguyên như trước. Ðây là luận về Bản Thể, Pháp Tánh
nên không có sự phân biệt rộng chật, không có vật chất cản trở
ngăn ngại nhau, chỉ có Tâm Thể hòa hợp làm một.
-
Ðại chúng cõi Ta Bà thấy rõ nước Diệu Hỷ trang nghiêm tốt đẹp
nên đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, nguyện sinh
sang nước đó. Ðức Thích Ca liền thọ ký cho và bảo muốn vậy phải
học cái Ðạo của Ðức Vô Động Như Lai đã làm, nghĩa là phải giữ
tâm như như bất động, vô phân biệt, tùng tướng nhập Tánh. Danh
từ thọ ký có nghĩa là nói trước, báo trước cho người tu hành
chân chánh biết về sau sẽ thành tựu quả vị gì, ở lại nước nào,
cõi đó tốt đẹp ra sao, sau bao nhiêu kiếp sẽ được thành Phật.
-
Huyền nghĩa của đoạn kinh này là chúng sinh nào muốn trở về Bản
Tâm như như bất động thì phải bỏ qua những tướng trạng bên ngoài
mà quay về thâm nhập Thật Tướng bên trong. Chúng sinh thường chỉ
tin tưởng vào những gì mắt thấy tai nghe và những sự việc vật
chất do giác quan tiếp thụ, còn những gì siêu việt do Tâm cảm
nhận thì không tin. Ông Duy Ma Cật dùng thần thông đem nước Diệu
Hỷ để vào cõi Ta Bà khiến cho chúng sinh thấy và phát lòng tin
rằng ngoài cõi Ta Bà còn có nhiều cõi nước khác nhiều cảnh giới
tốt đẹp nhiệm mầu, nhưng đều không ngoài Tâm mà có. Duy Ma Cật
được dịch là Tịnh Danh hoặc Tịnh Tâm. Ông Duy Ma Cật đem nước
Diệu Hỷ cho chúng sinh thấy, nghĩa là phải giữ tâm thanh tịnh,
như như bất động, phải tu Ðịnh thì trí huệ phát sinh, thấy được
sự thật huyền diệu an vui (nước Diệu Hỷ của Phật Vô Ðộng). Muốn
tới đó thì phải bỏ lòng chấp trước ích kỷ hẹp hòi tán loạn điên
đảo mà quay về với Tâm Bất Ðộng, chính Tâm này là Bản Thể nguồn
gốc sinh ra mọi sự mọi vật, là Chân Không phát sinh Diệu Hữu.
-
Sau khi làm xong những việc lợi ích nơi cõi Ta Bà, Ðức Phật Bất
Ðộng và tất cả nhân dân nước Diệu Hỷ trở về chốn cũ, cả đại
chúng đều thấy rõ. Ngài Xá Lơi Phất tán thán thần thông của ông
Duy Ma Cật và nguyện tất cả chúng sinh được thanh tịnh như Phật
Vô Ðộng. Ngài và đại chúng thời bấy giờ được nhiều lợi lành,
được gặp và cúng dường ông Duy Ma Cật, Ngài nguyện cho những
chúng sinh đời hiện tại hoặc vị lai được nghe kinh này, tin hiểu
thọ trì đọc tụng giải nói, đúng như pháp mà tu hành, sẽ được kho
tàng Pháp bảo và được chư Phật hộ niệm.
-
Nghe, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, giải nói Kinh này là tốt lắm,
nhưng quan trọng hơn hết là phải đúng như pháp mà tu hành. Nếu
không tu hành đúng như pháp thì chỉ là học suông, chỉ có bề
ngoài, chỉ có học mà không tu thì khác gì cái đãy đựng sách, cái
tủ sách đầy bụi, không lợi ích cho ai cả. Ðã học rồi thì phải
hành, mà phải hành đúng như pháp, nghĩa là đúng Chân Lý, đúng
luật Phật, hợp thời hợp cơ, tùy hoàn cành, tùy phương tiện, miễn
làm sao lợi người lợi mình, tự giác giác tha, cùng nhau đi trên
đường giác ngộ và giải thoát. Phật dạy gì ta làm nấy, Pháp dạy
thế nào ta theo nấy, Tăng sống hòa hợp thanh tịnh như thế nào ta
bắt chước nấy, bất cứ làm việc gì cũng chỉ vì cứu giúp chúng
sinh, không mong cầu, không ích kỷ ngã chấp, không chứng không
đắc đó là đúng như pháp mà tu hành vậy. Cúng dường những người
tu hành như vậy tức là cúng dường chư Phật, vì người đó đã đi
đúng con đường Phật, làm đúng việc Phật, chắc chắn sẽ thành
Phật. Tuy còn mang hình tướng chúng sinh nhưng hột giống Phật
trong người đó đã nẩy mầm mạnh mẽ, Phật Tánh đã được lau chùi
hết bụi, ánh sáng giác ngộ đã chiếu sáng, chẳng bao lâu sẽ ngồi
dưới cội bồ đề, đại phá ma quân, thành Ðạo Vô Thượng.
-
Nếu có người nào biên chép thọ trì kinh này thì chính là trong
nhà người ấy có Như Lai. Kinh là Pháp Bảo, là báu vật đưa chúng
sinh từ mê tới ngộ, từ phàm tới Thánh, tới Phật cho nên trong
nhà có kinh này được gọi là nhà có Như Lai. Kinh Pháp Bảo là
nhân mà Như Lai, Phật Bảo là quả. Nhưng điều cần yếu là thọ trì
rồi y theo nghĩa lý trong kinh mà thực hành thì mới có lợi, chứ
chẳng phải chỉ đọc tụng như con vẹt mà không hiểu huyền nghĩa ẩn
ý của kinh, không thực hành đúng đắn lời kinh thì dù trong nhà
có thiên kinh vạn quvển, bìa dầy chữ vàng, cũng chẳng có Như
Lai.
-
Người nghe kinh này mà tùy hỷ thì sẽ được đến bậc Nhất Thiết
Trí. Tùy hỷ là vui theo. Thấy người khác được lợi lạc mà mình
không có lòng ganh ghét đố kỵ, lại vui theo, mừng cho người ấy
thì được gọi là tùy hỷ. Sau khi vui theo rồi, mình cần bắt chước
người đó mà tu hành thì rồi cũng phát huy được cái trí huệ sẵn
có của mình, biết được tất cả mọi sự mọi vật một cách đúng như
thật, đúng Chân Lý, trí huê sáng suốt đó gọi là Nhất Thiết Trí.
-
Cho đến người nào chỉ tin hiểu kinh này cho đến một bài kệ bốn
câu rồi giải nói cho người khác nghe, phải biết người đó được
thọ ký quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Kinh sách có câu:
Lòng tin là mẹ sinh ra chư Phật. Phải có lòng tin ba ngôi báu
Phật Pháp Tăng để trở về nương tựa (quy y) và tinh tấn tu hành
thì sẽ được thành Phật. Thiếu lòng tin thì không có cơ sở vững
chắc mà xây dựng tòa nhà tinh thần, muốn ở nhà lầu cao đẹp mà
không đặt nền móng cho tốt, cho ngay thẳng thì dễ bị sụp đổ.
Nhưng không phải ai nói gì cũng tin, thấy gì cũng tin, tin càn
tin bướng, tin tà ma quỷ quái, mà phải có lòng tin chân thật gọi
là Chánh Tín, tin lẽ phải, tin luật nhân quả, tin lý vô thường,
vô ngã, tin theo gương sáng của Phật, tin theo lời Phật, kinh
Phật tức là Pháp, tin theo đời sống thanh tịnh hòa hợp của chư
Tăng, lòng tin là điều kiện thứ nhất trong ba điều kiện thiết
yếu được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Ðức Phật A Di Ðà (Tín,
Nguyện, Hạnh).
-
Sau khi tin rồi thì cần phải học hiểu cho rõ lời Phật, nghĩa
Kinh gồm cả nghĩa đen và nghĩa bóng, nhất là thâm ý ẩn tàng
trong Kinh, chư Tổ thường đạy đọc kinh cầu lý là thế đó. Tin
hiểu rồi thọ trì nghĩa là nắm vững lý kinh một cách chắc chắn
sâu xa bền vững không còn sai lầm, rồi đem giải nói cho những
người khác nghe, nghĩa là tự giác rồi thì phải giác tha, chẳng
bao giờ ôm lòng ích kỷ, mà lúc nào cũng muốn làm lợi ích cho
người khác. đó là tâm niệm của Bồ Tát chỉ nhắm việc lợi tha,
nhân lành đó đưa đến quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, là
quả vị Phật cao tột. Kinh điển Ðại Thừa rất nhiều, cao siêu rộng
lớn, nhưng chì dùng một bài kệ bốn câu giải nói cho người khác
nghe mà được lợi ich lớn lao như vậy, vì giúp người khác nghe
rồi tin hiểu thọ trì, cũng như đánh thức người đó tỉnh giấc
chiêm bao, tỉnh rồi thì không mê nữa, mình chỉ đánh thức một lần
là đủ, chĩ dùng bốn câu kệ là đã tạo duyên lành, mở đầu cho hột
giống Phật trong người đó nẩy mầm, rồi lần lần đơm hoa kết quả.
Kẻ nói người nghe Kinh này đều được thọ ký, chúng sinh đời sau
tu hành theo kinh này cũng được thọ ký, bộ kinh này thật là Pháp
Bảo vô giá vậy.
- --o0o--
|
|