|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
-
PHẦN SÁU
-
-
Như vậy đoạn này chỉ
cho chúng ta thấy cái thân rõ ràng rồi. Bây giờ đứng về mặt này
là cái mặt Ngài chỉ cho chúng ta chán chê cái thân. Nhưng mà
chán chê cái thân này rồi phải làm gì. Rồi tới đó bó tay than
thở hay sao? Đây là phải chuyển qua.
-
Này các nhân giả, cái
thân này là cái bệnh hoạn, là cái tai họa đáng chán. Phải thích
cái thân của Phật.
-
Cái thân của mình là
tai họa đáng chán. Bây giờ mình phải thích cái thân Phật.
-
Vì cớ sao? Thân Phật
là pháp thân.
-
Nói thích thân Phật
là cái pháp thân đó.
-
Từ vô lượng công đức
trí tuệ mà sanh. Từ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri
kiến mà sanh. Từ từ bi hỷ xả mà sanh. Từ bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, nhu hòa, cần hành tinh tấn, thiền định, giải thoát tam
muộc, đa văn, trí tuệ, các Ba la mật mà sanh.
-
Ở đây nói tới Thập Ba
la mật.
-
Từ phương tiện mà
sanh. Từ lục thông mà sanh. Từ tam minh mà sanh. Từ 37 phẩm trợ
đạo mà sanh. Từ chỉ quán mà sanh. Từ thập lực, tứ vô sở úy, thập
bát bất cộng pháp mà sanh. Từ đoạn tất cả pháp bất thiện nhóm
họp tất cả các pháp bất thiện mà sanh. Từ cái không phóng dật mà
sanh. Từ cái vô lượng. Cái pháp thanh tịnh như thế mà sanh thân
Như Lai. Như nhân giả muốn được cái thân Phật phải đoạn tất cả
bệnh của chúng sanh. Phải phát tâm vô lượng chánh đẳng chánh
giác. Ông Trưởng giả Duy Ma nói như thế vì các người đến thăm
bệnh nên ông như thế mà thuyết pháp. Khiến cho vô số ngàn người
đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
-
Như vậy ông Duy Ma
Cật ổng tùy theo trình độ của những người đến thăm bệnh ông, mà
ông vì họ nói pháp thích hợp với sở nguyện. Hay là với cái
nghiệp duyên của họ mà nói pháp. Khiến cho vô số những người đó
đều được phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đó là phần
của ông Duy Ma Cật, ông đã có cái khả năng, phương tiện giáo hóa
như vậy.
-
Như vậy chúng ta học
qua đoạn này mới thấy tinh thần của Bồ Tát mỗi một hành động,
mỗi một cữ chỉ nào phát ra cũng là vì chúng sanh mà phát ra phải
không? Như đoạn trước các Ngài muốn có tịnh độ thì cũng vì độ
chúng sanh mà có tịnh độ. Ở đây trường hợp các Ngài bệnh, bệnh
cũng vì chúng sanh mà bệnh. Chớ không phải vì cái nghiệp duyên
riêng của mình. Như vậy thấy tất cả hành động của các vị Bồ tát,
trường hợp nào cũng là vì người, vì chúng sanh. Phần này nếu
giảng cho kỹ thì rất là dài. Nhưng tôi nghĩ đây cũng là quen
rồi. Ngôn ngữ này chúng ta từng nghe, chỉ giảng sơ quí vị cũng
lãnh hội được.
-
Tới phẩm thứ ba, phẩm
đệ tử. Hai chữ đệ tử, chúng ta đã quen quá rồi, khỏi cần phải
giải thích.
-
PHẨM ĐỆ TỬ
-
Khi ấy ông Trưởng giả
Duy Ma Cật tự nghĩ, nằm bệnh trên giường, Thế Tôn là đấng đại bi
đâu chẳng có thương xót.
-
Đó là lời ông có vẻ
như sao mình bệnh nằm lâu quá, Phật đại bi mà Ngài không đến
thăm viếng mình.
-
Phật biết ý ông cư sĩ
Duy Ma Cật, liền bảo Xá Lợi Phất:
-
Ông đi đến thăm bệnh
ông Duy Ma Cật.
-
Xá Lợi Phất bạch
Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Con
không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa
từng ở trong rừng ngồi yên dưới cội cây. Khi ấy ông Duy Ma Cật
đến bảo con rằng: “Vâng! Xá Lợi Phất, không hẳn ngồi ấy là ngồi
yên. Phàm ngồi yên thì không có hiện thân ý ở tam giới, ấy là
ngồi yên. Không khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi, ấy mới
gọi là ngồi yên. Không bỏ đạo pháp mà hay hiện cái việc phàm
phu, ấy mới là ngồi yên. Tâm không trụ ở trong, cũng không ở
ngoài, ấy mới là ngồi yên. Đối với kiến chấp không động mà hay
tu 37 phẩm trợ đạo, ấy mới là ngồi yên. Không đoạn phiền não mà
vào Niết bàn, ấy mới là ngồi yên. Nếu hay như thế mà ngồi thì
Phật sẽ ấn chứng cho. Khi ấy! Bạch Thế Tôn con nghe những lời
nói này lặng thinh mà thôi. Không thể nào đáp được. Cho nên con
không có kham đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.
-
Đây là một hình ảnh,
bởi thường chúng ta hay nghĩ, mình đến dưới cội cây, ngồi trong
rừng vắng một mình. Đó là ngồi yên, phải vậy không? Hoặc giả
không như vậy thì khuya mình ngồi yên trên Thiền đường hoặc ngồi
trong một cái thất hoặc ngồi ngoài hành lang chẳng hạn. Có một
mình lặng lẽ, đó là ngồi yên phải không? Quan niệm mình ngồi như
vậy là ngồi yên. Nhưng với ông Duy Ma Cật, ông không nói như
vậy. Ông không thấy mình ngồi một mình lặng lẽ là ngồi yên. Mà
ông bảo muốn ngồi thì phải làm sao? Muốn ngồi yên là ở trong tam
giới mà không hiện thân ý đó mới là ngồi yên. Tại sao trong tam
giới mà không hiện thân ý. Tức là ngay mình đang sống trong tam
giới. Cõi mình là cõi dục giới. Còn sắc và vô sắc nữa. Nhưng
hiện sống trong tam giới này mà tâm mình ý mình nó không có
duyên theo tam giới. Hay là thân mình không hiện trong tam giới.
Ấy mới là ngồi yên. Nói một cách khác cho dễ hiểu hơn, nghĩa là
ngay trong tam giới mà không thấy tâm mình động. Thì đó mới thật
là ngồi yên.
-
Như vậy cái ngồi yên
này dễ hay khó. Như mấy chú thấy mình ngồi trong Thiền đường
thấy yên lặng tốt quá. Nhưng mà lúc đó yên không? Thân thì
nghiêm chỉnh, tạm yên đó nhưng cái tâm làm sao? Nếu không phải
ngủ gục thì nó hay chạy. Mà chạy là động hay yên. Như vậy Ngài
không nói cái chạy lên cõi trời sắc giới, vô sắc giới cũng chưa
phải là ngồi yên nữa. Huống nữa là những cái chạy lăng xăng, xóm
làng gần gần, cái đó thật là thông thường. Như vậy khi nào thân
tâm không động, lúc đó mới gọi là ngồi yên.
-
Rồi một câu kế Ngài
liền nói rằng:
-
Không có khởi tức là
không có xã là dậy trong diệt tận định mà hiện các oai nghi. Đó
mới là ngồi yên.
-
Bởi thường các vị tu
theo Nhị Thừa, khi nhập Diệt tận định, lúc đó thân thường như
chết vậy. Chỉ còn có chút hơi ấm mà không còn hơi thở. Chỉ còn
ấm mà không có hơi thở. Thường thường nói không thở thì chết,
phải không? Như vậy mà ngồi lặng lẽ như chết, thì gọi đó là nhập
diệt tận định. Nhưng ở đây ông nói rằng chưa có xã diệt tận định
mà hiện các oai nghi. Ấy mới là ngồi yên. Nếu mà đứng dậy đi, đó
là xả Diệt tận định rồi. Các oai nghi là đi, đứng, nằm, ngồi
phải không? Bây giờ không xả Diệt tận định làm sao đi, đứng,
nằm, ngồi, mọi hoạt động bình thường mà tâm giống như người nhập
diệt tận định vậy. Vậy mới gọi là ngồi yên. Chớ còn nhập Diệt
tận định mới là yên, mà ngồi yên đó, yên mà như chết, không hoạt
động. Cái yên đó không phải là yên thật.
-
Bởi vậy cho nên trong
nhà Thiền hay là Lục Tổ, Ngài hay nói rằng, nếu thấy có nhập có
xuất thì chưa phải là đại định đó phải không? Còn có nhập, còn
có xuất tức là còn có động. Bởi vậy nên ở đây nói rằng tâm mình
làm sao mà đi, đứng, nằm, ngồi hoạt động mà vẫn lặng lẽ như
người ở trong Diệt tận định. Đó mới là thật ngồi yên.
-
Không xả đạo pháp mà
hiện việc phàm phu, ấy mới là ngồi yên.
-
Không xã đạo pháp tức
là sống đúng với tinh thần đạo pháp, mà làm các việc phàm phu.
Đó mới là ngồi yên. Như chuyện gì? Như làm sao? Tôi thí dụ.
-
Thí dụ: như việc phàm
phu là việc gì? Việc cuốc rẫy, phải không? Việc làm ruộng. Đó là
việc phàm phu chớ gì? Làm ruộng, cuốc rẫy đó là việc phàm phu.
Khi làm việc phàm phu như vậy mà tâm hồn mình không rời đạo
pháp, đó mới là ngồi yên. Chớ còn làm việc phàm phu rồi tính
theo phàm phu. Tính lúa trúng, lúa thất. Rồi tính cái này, tính
cái kia. Cuốc đất mà không cuốc đất. Cuốc đất mà nhớ chuyện ở xứ
này, xứ nọ... cái đó là chư phải ngồi yên. Cho nên trong khi
mình làm những việc phàm phu đó mà tâm mình không rời đạo pháp.
Như vậy mới thật là ngồi yên.
-
Tâm không ở trong
cũng không ở ngoài, ấy mới là ngồi yên.
-
Thường chúng ta có
hai trạng thái. Một là thấy tâm ở trong. Hai là thấy tâm chạy ra
ngoài, phải không? Khi nào nó không chạy, lúc đó ở trong hay ở
ngoài? Lúc không chạy mấy chú thấy ở trong hay ở ngoài? Thường
thường nó không chạy, tâm tôi ở trong đó, nó đang yên ở trong.
Còn nếu nó phóng ra thì nói tâm ra ngoài. Nhưng sự thật tâm chạy
ra hoặc là tâm trụ ở trong, cái đó nó không thật, phải không? Nó
là bóng dáng. Đã là bóng dáng thì đâu có thật. Không thật thì
nói gì trong, nó gì ngoài. Còn nếu tâm thật thì nó trùm hết. Nó
không ở trong, không ở ngoài. Còn mình sống với cái tâm chạy đó,
khi nó chạy ra, thấy ở ngoài. Khi không chạy ra thấy nó ở trong.
Đó là sống với cái tâm bóng dáng, không thật. Chừng nào mình
thấy được cái tâm thật, không phải trong, không phải ngoài, đó
mới thật là ngồi yên.
-
Đối với các kiến
(kiến tức là kiến chấp. Kiến chấp của ngoại đạo đó). Không động
mà tu 37 phẩm trợ đạo, ấy mới là ngồi yên.
-
Tức là thường thường
mình muốn tu theo chánh pháp, mình phải diệt những tà kiến, phải
không? Diệt tà kiến thì mới theo chánh pháp. Đây là tà kiến
không cần diệt mà vẫn hành được chánh kiến. 37 phẩm trợ đạo đó.
Thuộc về chánh kiến. Như vậy mới là ngồi yên. Câu này và cây sau
là chỉ cho mình không còn thấy có hai. Không còn thấy đây là tà.
Kia là chánh. Như vậy mới thật là ngồi yên. Bởi vậy nên câu kế:
-
Không có đoạn phiền
não mà vào niết bàn, ấy mới là ngồi yên.
-
Mình còn thấy phiền
não nên đoạn. Niết bàn nên chứng. Như vậy vẫn còn thấy có hai.
Phiền não không cần đoạn. Niết bàn không cần vào. Bởi vì phiền
não, Niết bàn không hai. Bởi thấy không hai đó mới là ngồi yên.
Nếu được như vậy mới gọi là được Phật ấn chứng.
-
Như vậy đoạn này ý
của ông Duy Ma Cật muốn chỉ cho Ngài Xá Lợi Phất cũng như nhiều
người khác biết rằng, muốn được yên, thì không phải chỉ cái thân
tướng ở chỗ vắng vẻ là yên. Mà chính tâm mình không còn thấy có
hai bên, cái đó mới thật là yên. Chớ nếu tâm mình còn thấy hai
bên, thì đó chưa phải là ngồi yên.
-
Đó là đoạn thứ nhất.
Đoạn kế
-
Phật bảo:
-
Đại Mục Kiều Liên,
ông đi đến thăm bệnh Duy Ma Cật.
-
Mục Kiều Liên bạch
Phật:
-
Thế Tôn! Con không
kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa vào
trong đại thành Tỳ Da Ly, ở trong đường hẻm, vì các người cư sĩ
nói pháp. Khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng:
-
Vâng! Ông Đại Mục
Kiều Liên, vì bạch y cư sĩ nói pháp không phải như nhân giả đã
nói. Phàm nói pháp phải ‘nghi?’ pháp mà nói. Pháp không có chúng
sanh vì lìa chúng sanh cấu. (Chữ cấu là một lý luận, chữ cấu là
quan trọng). Pháp không có chúng sanh. Tại sao? Vì nó đã lìa
chúng sanh cấu. Pháp không có ngã vì lìa cái ngã cấu. Pháp không
có người vì mé trước mé sau dứt. Pháp thường lặng lẽ vì diệt các
tướng. Pháp lìa hư tướng vì không có sở duyên. Pháp không có văn
tự vì ngô ngữ đoạn. Pháp không có thuyết vì lìa giác quán. Pháp
không có hình tướng vì như hư không. Pháp không có hý luận vì
cứu cánh không. Pháp không có ngã sở vì lìa ngã sở. Pháp không
phân biệt vì lìa các thức. Pháp không có so sánh vì lìa đối đãi
(chữ “tương đối” chớ không phải “tướng đối”). Pháp chẳng thuộc
nhân vì không ở duyên. Pháp đồng với pháp tánh vì vào các pháp.
Pháp tùy nơi nghi vì không có chỗ tùy. Pháp trụ thật tế vì các
bên không động. Pháp không có đến đi vì thường trụ. Pháp thuận
với không. Pháp tùy vô tướng. Pháp ứng vô tác.
-
Câu đó như vậy mới
rõ. Pháp thuận với không. Nó tùy vô tướng, nó ứng với vô tác.
Ứng hợp với vô tác.
-
Pháp lìa đẹp xấu.
Pháp không có tăng giảm. Pháp không có sanh diệt. Pháp không có
chỗ trở về. Pháp vượt ra ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm.
Pháp không có cao thấp. Pháp thường trụ chẳng động. Pháp lìa tất
cả quán hạnh.
-
Vâng! Đại Mục Kiều
Liên, pháp tướng nó như thế. Há có thể nói ư! Phàm người nói
pháp không nói không bày. Người nghe pháp kia không nghe không
được. Ví như là người huyễn mà nói pháp. Phải dựng lập ý như vậy
mà vì nói pháp. Phải rõ chúng sinh, căn cơ chúng sinh có lợi
độn. Khéo nơi tri kiến không có sự chướng ngại. Dùng tâm đại bi
mà tán thán đại thừa. Nhớ đền ơn Phật. Không có dứt tam bảo.
Nhiên hậu mới nói pháp.
-
Ông Duy Ma Cật khi
nói lời ấy, 800 cư sĩ phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Con không có cái biện tài này. Thế nên không thể đến thăm bệnh
ông được.
-
Như vậy đây là trường
hợp Ngài Mục Kiều Liên. Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiều Liên là hai
vị thượng thủ ở trong giáo đoàn của Phật. Mở đầu Ngài Xá Lợi
Phất đã lui rồi, bây giờ tới Ngài Mục Kiều Liên. Câu chuyện Ngài
Xá Lợi Phất dễ hiểu hơn Ngài Mục Kiều Liên, phải không? Ngài Mục
Kiều Liên ở trong đường hẻm nói pháp cho cư sĩ nghe, ông Duy Ma
Cật mới bảo rằng:
-
Vì bạch y cư sĩ mà
nói pháp, không phải như nhơn giả nói. Vì bạch y cư sĩ không
phải nói kiểu đó đâu. Phải nói làm sao? Phải như pháp mà nói.
Như pháp mà nói là làm sao? Tức là thường thì các vị đệ tử của
Phật cũng như chúng ta bây giờ nói pháp là đứng trên tướng của
pháp mà phân biệt giảng nói. Thành ra nói là nói cái pháp. Còn
ông Duy Ma Cật bảo như pháp mà nói, tức là đi thẳng vào pháp
tánh mà nói. Chớ không phải nói theo pháp tướng nữa.
-
Ví dụ: như mình nói
37 phẩm Trợ Đạo. Rồi mình nói nào Tứ đế, nào Thập Nhị Nhân
Duyên... Đó là trên tướng. Còn như pháp tánh mà nói thì thế nào.
Pháp tánh là pháp không có chúng sinh. Vì sao? Vì lìa chúng sanh
vì không còn cấu nhơ của chúng sanh. Rồi pháp tánh đó không có
ngã vì lìa ngã cấu...
-
Như vậy đứng về mặt
pháp tánh thì nó không có tất cả cái này. Vì sao? Vì nó lìa tất
cả cái đó. Hiểu một câu thì mấy câu sau hiểu, phải không? Rồi
tới đoạn sau như ông nói rằng Phật tùy nơi như: Tức là pháp
tánh, Như là Như Như. Pháp tánh kà bất sanh bất diệt, bất dao
động. Cho nên nó không có chỗ tùy. Nói tùy mà không có chỗ tùy.
Pháp trụ thật tế. Pháp tánh chọn nét chân thật cho nên nó không
có mé này mé nọ, không động. Cho tới đoạn sau nói rằng, pháp
thuận không tùy vô tướng ứng vô tác. Bởi vì pháp tánh nó không
tướng nên gọi là thuận không. Mà đã không tướng nên gọi là tùy
vô tướng ứng vô tác.
-
Bởi vì pháp tánh nó
không tướng nên gọi là thuận không. Mà đã không tướng nên không
có tạo tác. Cho nên gọi là vô tác. Bởi vì pháp tánh nên đâu nói
đẹp, nói xấu. Mình nói đẹp xấu, nói thêm bớt, nói sanh diệt, là
đứng trên pháp tướng mà nói. Pháp tánh không có tất cả cái đó.
Bởi vậy ta mới nói rằng pháp tánh vượt ra ngoài cả mắt, tai,
mũi, lưỡi, tâm. Tâm tức ý đó.
-
Như vậy ở đây câu kết
thúc của ông, người nói pháp không nói không bày. Còn người nghe
pháp, không nghe không được. Bởi vì pháp tánh, mà pháp tánh làm
sao nói được. Mở miệng nói thì trên cái đối đãi. Mà đối đãi là
tướng chớ không phải tánh nữa. Cho nên pháp tánh thì không nói,
không bày. Còn vì pháp tánh thì lấy gì nghe. Nếu nghe, ngôn ngữ
thì cái nghe đó nằm trong đối đãi. Ngôn ngữ thuộc về đối đãi. Vì
vậy mà nói người nghe không nghe không được. Như vậy pháp tánh
là tự mình khế hợp. Còn nghe pháp tánh là cũng tự mình nhận ra
chớ không phải có nói có nghe. Có nói có nghe là không thật. Cho
nên câu ông muốn nhắc cho chúng ta biết rõ, ví như người huyễn
vì người huyễn nói pháp phải kiến lập ý đó, thì nói pháp mới
được. Như vậy người huyễn là gì, người huyễn nói pháp làm sao?
Mình nói pháp thì thường thường mình nói đây là cái pháp thiện,
đây là cái pháp ác. Thiện thì mình ráng tu. Cái này ác mình ráng
bỏ, phải không? Thường chúng ta nói pháp là như vậy.
-
Nhưng nếu nói vậy là
pháp tướng hay pháp tánh? Đó là pháp tướng. Pháp tướng thì nằm
trong sinh diệt. Nếu mình nói như vậy mình đừng thấy đây là
thiện thật, đây là ác thật. Mình nói đó mình phải thấy rằng,
chuyện giảng dạy của mình bây giờ giống như người huyễn nói pháp
cho người huyễn nghe vậy thôi. Người nói cũng là huyễn, người
nghe cũng là huyễn, người nghe cũng là huyễn. Thấy như vậy đừng
có chấp thật thì mới đúng là tinh thần nói pháp mà mình thấy nói
ra là pháp đối đãi, mà đối đãi là không thật, mà mình thấy mình
nói thật thì pháp thật đó là đã không đúng tinh thần nói pháp
rồi, phải không? Nên ông nhắc lại câu đó. Phải nhớ rõ ràng như
vâỵ. Đó là một ý nghĩa thứ nhất.
-
Rồi ý nghĩa thứ hai
là ông bảo mình nói pháp thì phải biết căn cơ chúng sanh lợi
độn. Khéo đối với cái thấy biết không bị chướng ngại. Dùng đại
bi tán thán đại thừa rồi để đền ơn Phật, không có dứt tam bảo
thì mới nên nói pháp. Đó là ý thứ hai.
-
Thường thường mình
chưa được tha tâm thông thì làm sao mình biết căn cơ chúng sanh
lợi độn mà nói pháp. Bây giờ mấy chú làm sao biết. Bây giờ có
người tới mình, họ muốn hỏi đạo. Khi tới mình kêu ngồi đây rồi
giảng ào ào một hồi, rồi thôi đi. Như vậy đó được không? Hay
phải làm sao? Đó là cái tôi chỉ cho phải biết. Phần nhiều người
ta tới, tức là những người có tánh cách như là khao khát tìm
hiểu. Tới có khi nào tôi nói, tôi hỏi: “Đạo hữu muốn hỏi cái gì?
Đạo hữu tu làm sao? Ở nhà đọc kinh sách gì?” Mình chưa có tha
tâm thông thì đâu biết trình độ họ cao thấp. Chính cái họ trình
bày cho mình đó. Nói ở nhà đã tu thế này. Hoặc tu thế kia. Hoặc
đọc kinh sách nào, thì mình mới biết người đó trình độ tới đâu.
Nhân đó mình nói sẽ dễ gần với họ hơn. Chớ mà tới, có nhiều sư
mình vì thấy đạo lý hay quá, thích, gặp ai cũng muốn xổ cho họ
nghe. Cho nên ở đây bảo, trước phải biết căn cơ họ lợi độn. Rồi
kế đó mình phải làm sao? Mình khéo đối với cái thấy biết đừng bị
chướng ngại và khởi tâm đại bi đề cao pháp đại thừa.
-
Như vậy là cốt đền ơn
Phật, mới đáng là người nói pháp. Nói pháp là cốt đền ơn Phật,
chới không phải nói pháp là tỏ mình hay.
-
Như vậy đoạn này kết
luận lại là Ngài Mục Kiều Liên, Ngài nói pháp cho cư sĩ là đứng
về mặt pháp tướng, chia chẻ, phân tích cho họ hiểu. Ông Duy Ma
Cật, ông nhìn bằng pháp tánh. Cho nên ông chê nói như vậy không
hợp, phải nói nói thẳng nơi pháp tánh. Nhưng mà pháp tánh rốt
cùng không có người hay nói và cũng không có người nghe. Đó là
cái chỗ chân thật.
-
Bây giờ tới Ngài Đại
Ca Diếp.
-
Phật bảo Ngài Ca
Diếp:
-
Ông đến thăm bệnh ông
Duy Ma Cật.
-
Ngài Ca Diếp bạch
Phật rằng:
-
Thế Tôn, con không
kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa ở
trong xóm nghèo mà đi khất thực. Khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo
con rằng: Vâng! Đại Ca Diếp có lòng từ bi, mà không thể khắp
hết. Bỏ nhà giàu có để đi đến những nhà nghèo khất thực. Vì
không ăn nên hành khất thực. Vì phá hoại cái hòa hợp tướng nên
nhận thức ăn từng nắm, từng muỗng. Vì không thọ nên nhận thức ăn
kia. Vì dùng cái tươngr không tụ (không tụ tức là họp lại). Từ
cái chỗ không mà vào trong xóm làng. Chỗ thấy có sắc cùng với
người mù đồng. Chỗ nghe tiếng cùng với vang đồng. Được ngửi mà
không phân biệt các xúc như trí chứng. Biết các pháp như tướng
huyễn. Không tự tánh, không tha tánh. Vốn tự xưa không sanh, nay
cũng không diệt (Bản tự tất nhiên tức là xưa tự không sanh, nay
cũng không diệt). Này Ca Diếp, nếu nay không xả 8 cái tà, vào 8
giải thoát. Dùng tướng tà mà vào cái pháp chánh. Dùng 1 thức ăn
mà thí tất cả. Cúng dường chư Phật và các bậc hiền thánh, nhiên
hậu mới có thể ăn. Người ăn như thế không có phiền não, không có
lìa phiền não. Không có vào định ý, cũng không có khởi định ý.
Không trụ thế gian cũng không trụ Niết Bàn. Cái người thí cho họ
không có phước lớn, không có phước nhỏ, không có thêm, không có
bớt. Ấy mới gọi là chánh vào Phật đạo. Không y nơi hàng Thanh
Văn. Ngài Ca Diếp nếu ăn như thế là không uổng của người thí
chủ.
- --o0o--
|
|