|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
-
PHẦN
BẢY
-
-
Con khi ấy, bạch Thế Tôn, nghe thấy lời này rồi thì được chưa
từng có. Liền đối với tất cả Bồ tát sâu khởi tâm cung kính. Lại
khởi nghĩ thế này, đây là hàng danh tiếng được biện tài trí tuệ
mới có thể nói được như thế. Ai nghe mà không phát tâm vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Con từ đây trở về sau không có dám khuyên
người dùng pháp Thanh văn hay pháp Bích Chi Phật để cho họ thực
hành. Thế nên con không kham đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.
-
Như vậy đoạn này đứng về phần khất thực. Ngài Ca Diếp và Ngài Tu
Bồ Đề là 2 vị có tâm lệch một bên. Ngài Ca Diếp thì thương người
nghèo. Thường thường mình nói mình thương người nghèo thì lẽ ra
không dám nhận của họ, phải không? Bởi vì họ đã nghèo rồi mà
mình nhận của họ nữa thì họ lại nghèo thêm. Nhưng mà ngược lại
Ngài Ca Diếp vì thương người nghèo cho nên nđi khất thực trong
xóm nghèo để cho họ gieo căn lành, để sau này họ mới giàu được.
Chớ bây giờ nếu mình sợ họ nghèo mình không dám khất thực, không
dám yêu cầu họ làm phước, thì tâm ích kỷ của họ lại càng thêm.
Như vậy đời sau làm sao có phước. Như vậy chẳng lẽ đời người
nghèo, đời sau nghèo, nghèo hoài sao.
-
Cho nên muốn chuyển cái tâm của họ từ cái nghèo trở thành giàu,
vì vậy Ngài tìm mấy người cùi, cúng khất thực họ nữa. Đó cũng là
tâm từ bi mới làm được như vậy.
-
Ngược lại Ngài Tu Bồ Đề thì sao? Cứ tìm nhà giàu khất thực. Cũng
vì lòng từ bi. Ngài quan niệm đơn giản, họ dư mình xin một chút
không thấm vào đâu. Như vậy họ không thiếu. Như vậy cái khất
thực của mình nó không làm thiệt thòi cho người cúng.
-
Như vậy ai cũng từ bi hết mà nó trở thành lệch. Một bên thì nặng
muốn gieo duyên với người nghèo. Một bên nghĩ mình xin mà người
ta không bị thiệt thòi bao nhiêu, không khổ khó cho họ, cho nên
nhắm người giàu.
-
Như vậy đều vì lòng từ bi mà có thiên lệch. Cho nên ở đây mới
dẫn ra câu chuyện, khi ông Duy Ma Cật thấy Ngài đi tới xóm nghèo
khất thực rồi, ông nói rằng: Ông có lòng từ bi mà nó không có
gốc. Bỏ người giàu mà đến xin người nghèo, lòng từ bi của ông
không có bình đẳng. Bây giờ ổng mới hướng dẫn đây. Ngài Ca Diếp
phải trụ nơi pháp bình đẳng. Nghĩa là phải trụ nơi pháp bình
đẳng mới nên đi khất thực. Mình muốn khất thực phải trụ pháp
bình đẳng để khất thực. Pháp bình đẳng để khất thực là thế nào?
Tức là lên thứ lớp, đi nhà nào?
-
Thí dụ: Đây là nhà giàu, mình cũng khất thực. Kế đó nhà nghèo
mình cũng khất thực. Nhà nào tùy tới đâu người ta cho thì nhận,
chớ không có lựa xóm nghèo tới, hoặc lựa xóm giàu tới. Đó mới
gọi là bình đẳng. Nhưng mà tới đây, ông qua cái lý, vì không ăn
nên đi khất thực. Không ăn khất thực làm chi, phải không? Ăn mới
khất thực chớ, không ăn khất thực làm gì? Mà ở đây nói vì không
ăn nên đi khất thực. Mà ai không ăn? Nếu thân này thì phải có
ăn, phải không? Đây ông muốn đi sâu cái lý. Nghĩa là mình đi
khất thực mình sống, tu đó là vì để nhận ra cái pháp thân. Sống
với pháp thân. Mà cái đó có ăn không? Nó không có ăn. Nhận được
cái đó thì mới đi khất thực. Vì hoại hòa hợp tướng mới nên đi
khất thực. Hoại hòa hợp tướng là thân này nè! Ngũ uẩn hòa hợp
hay là tứ đại hòa hợp. Vì không có nuôi dưỡng, không có tiếp tục
tướng hòa hợp này nữa mới đi khất thực. Như vậy đi khất thực là
vì sự giải thoát vái tướng hòa hợp phải không? Mới đi khất thực.
Chớ nếu mình vì tiếp tục đời sau làm người hoặc làm trời gì đó,
khất thực cái đó là không đúng. Cho nên hoại và hợp vì bất thọ,
không thọ nên đi khất thực, nhận thức ăn kia. Không thọ tức là
thường chúng ta có 5 giác quan. Năm giác quan đó đối với năm
trần, có cảm thọ. Nhưng đây pháp thân có 5 giác quan không? Cho
nên nói là không thọ. Như vậy đó, dùng đó mà đi khất thực. Dùng
cái tưởng không tu, tức là cái tưởng thân này giống như chỗ
trống, rồi 5 thứ ấm hợp lại, chớ nó không có thật. Như vậy xóm
làng cũng là cái nhóm hợp lại không thật. Mình tưởng như vậy đó
mà đi vào xóm làng khất thực. Bảo mình thấy sắc cùng với người
mù đồng. Nghe tiếng cùng với vang đồng. Ngữi mùi cùng với gió
đồng. Khi ăn vị không phân biệt. Khi xúc chạm như trí chứng. Mấy
cái này quí vị nghe thấy dễ hiểu không? Thấy sắc như mù là làm
sao? Thấy làm sao như mù được. Như mù là không thấy. Đã là thấy
mà tại sao như mù? Bởi vì chúng ta thấy mà không có thêm phân
biệt đẹp xấu. Cho nên thấy là như mù, chớ không phải là không
thấy. Thấy mà không có niệm phân biệt đẹp xấu. Vì vậy mà nói
thấy như mù. Nghe như vang. Nghe khen, nghe chê, đều như tiếng
vang ở trong núi, ở dưới hồ, dưới ao dội lại mà thôi. Nếu mình
được hai cái đó thì tu dễ chưa. Thấy sắc mà như mù, nghe tiếng
mà như vang. Nghe người ta chửi và nghe người ta khen, hai cái
đều là vang hết trơn thì mình khỏe không? Nhưng mà bây giờ nghe
chửi thì mặt đỏ, phải không? Nghe khen thì miệng cười, là tại
sao? Là vì mình chưa sống với cái pháp bình đẳng đó, rồi nói
rằng ăn vị mà không phân biệt làm sao. Khi đồ ăn để vô lưỡi mình
không phân biệt là làm sao? Không phân biệt tức là không biết
ngon dở chớ gì, phải không? Nếu không biết ngon dở thì cái lưỡi
đó bỏ đi rồi. Hết cảm giác rồi. Như vậy thì sao? Không phân biệt
nghĩa là làm sao? Vị để vào lưỡi ngon, thì vẫn biết ngon, dở thì
vẫn biết dở. Nhưng đừng có ngon mà thích, dở mà ghét đó, thì
được rồi. Gọi là không phân biệt. Chứ đừng nói rằng như vậy cái
lưỡi mình tu không biết đời nào, vì để vô lưỡi lúc nào cũng phân
biệt hết, phải không? Mà đây bảo rằng, đối vị không phân biệt.
Rồi mình cứ ngỡ rằng không phân biệt là để vô lưỡi không biết
ngon dở gì hết. Cái đó là quá sai lầm. Nghĩa là con mắt thấy mà
như mù. Tức là thấy mà không phân biệt đẹp xấu. Nếu đẹp vẫn biết
đẹp, xấu vẫn biết xấu. Nhưng không có cái niệm để đuổi theo cái
đẹp, để chán ghét cái xấu, thì đó gọi là mù. Lưỡi nếm vị ngon
biết ngon, dở biết dở. Chớ làm sao không biết. Nhưng mà ngon
không có cái luyến, dở không có cái ghét, cái chán. Đó không
biết vị là vậy.
-
Thọ các xúc như trí chứng. Câu này khó hiểu đó. Tức là khi mình
có cảm thọ về phần xúc chạm như trí chứng. Trí chứng là làm sao?
Tức là ngay cái trí chứng như thật. Chớ không có phải như cảm
giác của mình. Bởi vì thường thường cái xúc nó có cái cảm giác.
Những cảm giác đó có ưa thích, vui buồn. Nhưng bây giờ tất cả
cái thọ đó, xúc chạm đó, mình đều biết đúng như trí nhận ra. Chớ
không phải như tình cảm hay cảm giác. Bởi vì tất cả cái xúc chạm
mình điều thấy nó như là huyễn, như là hóa, không có thật. Không
có gì thật hết. Cho nên tâm không nhiễm trước. Đây mới giải
thích nè! Các pháp như tướng huyễn. Không tự tánh, không tha
tánh. Xưa không sanh, nay không diệt. Như trí chứng đó, mình
phải thấy như vậy. Đó là đoạn nói rằng mình ăn hay thọ thực phải
có những điều kiện đó.
-
Bây giờ lại nói thêm, nếu mà hay không xả 8 tà vào 8 giải thoát.
Dùng tướng tà vào pháp chánh. Đây là tư cách bình đẳng. Không có
thấy bên kia tà, bên đây chánh. Bên kia là pháp trói buộc, bên
đây là pháp giải thoát. Không còn kẹt bên này, bên kia, dùng một
thức ăn mà thí tất cả, đó là chỉ cho cái bình đẳng đó. Nghĩa là
một tướng bình đẳng không có khác. Cho nên một tức là tất cả,
hay tất cả tức là một. Cúng dường Phật và chư Hiền Thánh, nhiên
hậu mình mới ăn. Cái đó dễ hiểu rồi. Người ăn như thế thì không
có phiền não cũng không có lìa phiền não. Chẳng nhập định ý cũng
chẳng khởi định ý. Khởi tức là xuất đó. Không trụ thế gian cũng
không trụ niết bàn. Tức là đi tới cái nhất tướng bình đẳng. Mà
đã nhất tướng bình đẳng thì không còn có phiền não hay ly phiền
não hai bên nữa. Cũng không có nhập định và xuất định. Không có
trụ thế gian và trụ Niết bàn. Bởi vì Niết bàn và thế gian là hai
bên. Nhập định, xuất định là hai bên. Phiền não và lìa phiền não
là hai bên. Nghĩa là tới chỗ bình đẳng thì không còn kẹt hai
bên. Người thí cho ông không có pháp lớn cũng không có pháp nhỏ.
không có tăng, cũng không có giảm.
-
Như vậy vì chỗ bình đẳng đó nếu thấy có lớn có nhỏ thì hết bình
đẳng rồi. Thấy có thêm có bớt thì không phải là bình đẳng rồi.
Cho nên không lớn không nhỏ. không tăng không giảm. Đó mới là đi
vào Phật đạo, không phải kẹt bên Thanh Văn. Bởi vì Thanh Văn còn
nhìn trên đối đãi. Còn Phật đạo là đi tới bình đẳng, không còn
đối đãi nữa. Nếu mình được như vậy mới là hành Phật đạo.
-
Như vâỵ đoạn đó nói cho mình thấy rõ, nếu người nhận thức ăn như
vậy mới không uổng công người thí chủ. Đoạn sau chỉ là nói thêm
của Ngài Ca Diếp thôi.
-
Tóm lại, cho dễ hiểu thì đoạn này, ý Ngài Duy Ma Cật muốn nhắc
rằng, người khất thực, phải có cái tâm bình đẳng. Khi được cái
tâm bình đẳng rồi thì nhìn thấy các pháp không còn hai bên. Mà
chính không thấy các pháp có hai bên đó đó, mới đi thẳng vào
Phật đạo. Nếu còn thấy có hai bên chưa phải là Phật đạo. Đó là
đoạn của Ngài Ca Diếp.
-
Đến Ngài Tu Bồ Đề, ông này hơi khó hơn chút nữa.
-
Phật bảo Tu Bồ Đề:
-
Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.
-
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn, con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao?
Con nhớ lại thuở xưa con vào nhà ông để mà khất thực (Tùng khất
thực tức là để mà khất thực). Khi ấy ông Duy Ma Cật nhận bát của
con (chữ “Thủ” là nhận chớ không phải là “Giữ”). Nhận bát của
con rồi múc đồ ăn để đầy bát. Rồi bảo con rằng:
-
Vâng! Ngài Tu Bồ Đề, nếu đối với thức ăn mà bình đẳng. Các pháp
bình đẳng thì đối với thức ăn, cũng bình đẳng. Như thế mà thực
hành khất thực đó thì mới thì đó mới nên nhận lấy thức ăn. Nếu
ông Tu Bồ Đề không đoạn tham sân si cũng không chung cùng với nó
(chữ “Câu” là “chung”. Không chung cùng với nó). Không phá hoại
thân mà tùy nhất tướng (nghĩa là thân mình không bị phá hoại mà
thuộc về một tướng). Không diệt si ái mà khởi được giải thoát.
Do tướng ngũ nghịch mà được giải thoát. Cũng không có giải, cũng
không có phược. Không thấy Tứ đế và không phải không thấy Tứ đế.
Không được quả cũng không phải không được quả. Không phàm phu,
không lìa pháp phàm phu. Không thánh nhân, không chẳng thánh
nhân. Tuy thành tựu tất cả pháp mà không lìa các tướng mới có
thể nhận thức ăn. Nếu ông Tu Bồ Đề không thấy Phật, không nghe
pháp những ngoại đạo kia. Lục sư ngoại đạo kia là thầy của ông.
Nhưng những lục đạo đó, lục sư ngoại đạo đó, mà ông xuất gia,
những ông thầy đó đọa thì ông cũng phải đọa. Như vậy mới nên
nhận thức ăn.
-
Nếu ông Tu Bồ Đề vào trong các tà kiến không đến bờ giải thoát
hay là bờ Niết Bàn. Trụ trong 8 nạn, mà không được không nạn.
Đồng với phiền não lìa pháp thanh tịnh. Ông được vô tránh tam
muội thì tất cả chúng sanh cũng được cái định ấy. Người thí cho
ông gọi là phước điền. Người cúng dường cho ông không rơi vào ba
đường ác. Ông cùng với chúng ma cùng nắm tay nhau làm bạn lữ.
Ông cùng với chúng ma và các trần lao đồng không có khác. Đối
với tất cả chúng sanh mà có tâm quán, chê bai Phật, hủy bánh
pháp, không vào chúng Tăng (“Chúng Số” tức là chúng Tăng) trọn
không được diệt độ. Ông nếu như thế thì mới nên nhận thức ăn.
-
Khi ấy, Bạch Thế Tôn! Nghe nói lời này rồi, con mờ mịt (“Man
nhiên” là mờ mịt) không biết phải nói thế nào, không biết dùng
cái gì mà đáp (Tức là không biết nói thế nào, không biết dùng
lời gì mà đáp). Con liền để cái bát đó muốn chạy ra khỏi nhà ông
(Sợ quá! Nghe nói hoảng hốt quá!). Ông Duy Ma Cật mới nói rằng:
-
Vâng! Ngài Tu Bồ Đề, nhận bát chớ có sợ. Ý ông nghĩ sao? Như Lai
mà có hóa ra người, người ấy đem cái việc này nói cái việc này,
hay là đem việc này hỏi ông thì ông có sợ chăng?
-
Con thưa:
-
Không vậy.
-
Ông Duy Ma Cật mới nói:
-
Tất cả các pháp như tướng huyễn hóa. Nay ông không nên có chỗ
sợ. Vì cớ sao? Tất cả lời nói không lìa tướng ấy. Đến người trí
thì không chấp vưn tự, cho nên không có sợ, vì cớ sao? Vì văn tự
cái tánh nó lìa. Không có văn tự ấy là giải thoát. Tướng giải
thoát ắt là các pháp vậy.
-
Ông Duy Ma Cật khi nói pháp này thì 200 Thiên tử được pháp nhãn
trong sạch, cho nên con không thể đến thăm bệnh ông.
-
Như vậy đoạn này là đoạn khó nhất đó, phải không? Nói những
chuyện lạ lùng trái đạo lý. Nghe nói ông hốt hoảng. Đây có những
tinh thần, từng phần. Phần đầu là ông muốn nói, ông muốn nói gì?
Nghĩa là không đoạn tham, sân, si cũng không chung đồng với
tham, sân, si. Không hoại cái thân mà tùy theo nhất tướng. Không
diệt si ái mà khởi giải thoát. Dùng cái tướng ngũ nghịch mà được
giải thoát. Cũng không thấy giải và phược. Cũng không thấy Tứ đế
và không không thấy tứ đế...
-
Đoạn này để nói chỗ chân thật, bình đẳng thì không có hai bên.
Ngay ở trong tham, sân, si nó có giải thoát. Ngay trong giải
thoát là từ tham, sân, si. Chớ hai pháp không có rời, không có
riêng. Cho nên không có giải thoát mà cũng không có triền phược.
Không có chẳng thấy Tứ đế cũng không chẳng chẳng thấy Tứ đế. Như
vậy tất cả hai bên đều không có. Nếu còn nhận có hai bên là chưa
thấy pháp bình đẳng. Mà thấy pháp bình đẳng thì không còn hai
bên. Nếu ông không thấy được hai bên thì đó mới nên nhận thức
ăn.
-
Đó
là một đoạn. Như vậy đoạn này để nói lên pháp không có hai bên.
Đối đãi không phải là pháp thực. Bây giờ chúng ta thường nói tu
là sao? Là dẹp tham sân si, phải không? Mà diệt được tham sân si
thì mới giải thoát. Như vậy tham sân si diệt thì mới có giải
thoát.
-
Bây giờ tôi nói thí dụ. Như có người bị trói, bị lấy 3 sợi dây
trói tay họ cứng ngắt vô trong cây. Như vậy họ bị ba sợi dây
trói, cho nên họ mới tính làm sao? Họ muốn thoát 3 sợi dây trói
đó họ phải làm sao? Phải mở, phải không? Bởi vì bị trói cho nên
mới có mở. Như vậy mở là từ trói mới có mở. Còn nếu không có
trói thì có mở không? Như tất cả chúng ta, về lẽ thật thì đâu có
ai bị trói. Không bị trói thì đâu có mở. Còn nếu thấy mở là do
bị trói. Như vậy cái trói và cái mở là có thật lâu dài hay là
tạm thời. Như vậy lập giải thoát là khi nào thấy triền phược,
phải không? Như vậy giải thoát có, là khi nào có triền phược.
Nếu triền phược không có thì giải thoát có không. Phật tánh có
triền phược và giải thoát không? Trên giả tướng thì có phược có
thoát. Chớ còn trên tánh thì không có phược có thoát. Cho nên
khi chúng ta hiểu thì thấy rằng pháp tánh không đối đãi. Mà mọi
đối đãi đều không phải là pháp tánh. Nếu nhận được pháp tánh,
như vậy mới xứng đáng đi khất thực. Đó là đoạn thứ nhất.
-
Tới đoạn thứ hai này nói gì nghe khó hiểu quá! Nếu ông Tu Bồ Đề
không thấy Phật, không nghe pháp. Đối với ngoại đạo Lục sư kia
là thầy của ông. Ông nhơn những người kia mà xuất gia. Những
người kia đọa, ông cũng theo đó mà đọa. Như vậy mới nên khất
thực. Khuyên làm sao? Mình là người xuất gia mà không theo tam
bảo lại theo Lục sư ngoại đạo. Đó, Lục sư ngoại đạo này có một
Thiền sư giảng, Lục sư ngoại đạo đây kể tên chớ mà đó ngầm ý chỉ
cho sáu căn. Sáu căn luôn luôn chạy theo sáu trần, cho nên gọi
là ngoại đạo. Bây giờ mình tu là gì? Cũng là căn cứ trên sáu căn
đó mà chuyển hướng nó. Cho nên nó quen thói là chạy ra ngoại
trần. Bây giờ mình đổi, không cho nó dính với ngoại trần nữa.
Gọi là xuất gia. Gở cái dính. Gỡ sáu căn dính với sáu trần. Gỡ
đó gọi là xuất gia, rồi giải thoát. Khi mình gỡ được, không còn
cho dính nữa, như vậy nó rớt hết. Thì cái chấp của mình về nó
cũng rớt hết. Cho nên “Bĩ sư sở đọa nhữ nhược tùy đọa”. Như vậy
mới nên nhận thức ăn. Nhận thức ăn là sau khi mình chuyển hướng
được sáu căn không còn dính mắc với sáu trần. Bao nhiêu cái nó
tan vỡ hết không còn chút dính mắc nào. Như vậy mới nên nhận
thức ăn.
-
Đến đoạn sau nữa mới nghe hơi lạ lùng nữa. Nếu ông Tu Bồ Đề vào
các tà kiến không đến bờ kia. Trụ nơi tám nạn không được không
nạn. Đồng với phiền não, lìa pháp thanh tịnh. Ông được về vô
tránh tam muội thì tất cả chúng tăng cũng được như vậy. Người
thí cho ông không gọi là phước điền. Người cúng dường cho ông sẽ
đọa ba đường ác. Ông cùng với chúng ma nắm tay nhau làm bạn. Ông
cùng với chúng ma và các trần lao không có khác. Đối với tất cả
chúng sanh có tâm quán, có tâm quán chê bai Phật, hủy báng pháp,
không vào chúng Tăng, trọn không được diệt độ. Ông được như vậy
mới nên nhận thức ăn. Đoạn này nói gì nghe thật là lạ lùng. Đoạn
này giống hệt Thiền sư. Đố biết Thiền sư nào? Học rồi đó, nói
cái tôi biết mấy chú hiểu hay không hiểu. Không phải giống Động
Sơn không phải giống Lâm Tế nữa. Ai? Mấy chú nhớ Ngài Huệ Nam
khi ở chỗ Ngài Từ Minh được nghe làm sao? Nghe chửi bới. Chửi
bới đã rồi ông hết nhẫn nổi nữa, rồi ông nói: “Chửi bới là từ bi
sao?” Ngài Từ Minh nói làm sao? Ngài Từ Minh nói làm sao cho ông
ngộ. Ông nói: “Chửi bới đó là chửi bới ta, như vậy là chửi bới
sao?” Ngang đó ông ngộ.
-
Đây cũng giống hệt như vậy, dùng một ngôn ngữ ngược lại. Bởi vì
ngôn ngữ là không thật. Ngôn ngữ là tánh ly. Bây giờ dùng ngôn
ngữ ngược lại. Ngài Tu Bồ Đề nghe ngôn ngữ ngược lại, ông hoảng
quá! Nói sao mà ngược ngạo? Người tu mà người cúng dường cho
mình đọa ba đường ác. Rồi mình với ma giống hệt nhau không khác.
Tâm mình quán chúng sanh chê Phật, hủy báng pháp...
-
Như vậy đó mới nên nhận thức ăn. Nghe tới đó mà ai không hoảng,
phải không? Nhưng mà đây chỉ cho ngôn ngữ tánh nó ly, không
thật. Ngôn ngữ không thật mình nghe vậy mình hoảng hốt. Đó là
mình chưa có thấy cái tính ngôn ngữ không thật. Mà ngôn ngữ
không thật chấp là thật tức là mình còn mê muội. Vậy cho nên khi
ông Tu Bồ Đề nghe tới đây rồi, ông than thở ông muốn ôm bát ông
chạy. Bây giờ ông mới nói nè! Tất cả các pháp như huyễn hóa, nay
ông chẳng nên sợ. Vì sao không sợ? Vì tất cả ngôn ngữ không có
tánh, có văn, ấy là giải thoát. Như vậy ông mới giải thích nè!
Khi mà ông dùng những chữ bạo đó làm cho Ngài Tu Bồ Đề hoảng hốt
lên thì ông giải thích những ngôn ngữ tôi nói với Ngài đó nó
không thật. Không thật mà Ngài thấy thật là Ngài còn mê, còn
chấp. Còn mê chấp thì không đáng thọ thực. Như vậy mới thấy ý
của ông Tu Bồ Đề.
-
Mình thấy đoạn này chia ra từng phần. Phần trước là chỉ cho khất
thực phải tâm bình đẳng, thấy pháp bình đẳng. Như vậy đó mới nên
nhận thức ăn. Phần kế là phải chuyển được sáu căn đến chỗ giải
thoát thì mới gọi là đáng nhận thức ăn. Phần sau thấy ngôn ngữ
là không thật, văn tực là không thật. Như vậy mới đáng nhận thức
ăn.
-
Ngài Phú Lâu Na Duy Đa La Ni Tử, Ngài dịch chữ Hán gọi là Mãn Từ
Tử, là một vị giảng sư nổi tiếng. Nghĩa là Phật nói những pháp
đơn sơ hoặc là ngắn gọn, chư Tỳ Kheo không hiểu thì hỏi Ngài.
Ngài giảng rộng ra cho ai nấy đều hiểu. Bởi vậy Ngài được nổi
tiếng là một người nói pháp rất giỏi, rất dài.
-
Phật bảo Phú Lâu Na Duy Đa La Ni Tử:
-
Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.
-
Ngài Phú Lâu Na bạch Phật rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao?
Con nhớ thuở xưa ở trong Đại Lâm (Đại Lâm là tên rừng) ở dưới
cội cây, vì các vị tân học Tỳ Kheo con nói pháp. Khi ấy ông Duy
Ma Cật đến bảo con rằng: “Vâng! Ngài Phú Lâu Na. Trước phải nhập
định, quán tâm của những người này, về sau mới nói pháp. Không
nên đem đồ nhơ mà để trong bát báu. Phải biết sở niệm hay là chỗ
nghĩ của tâm của các Ngài Tỳ Kheo này. Không nên cho cái lưu ly,
đồng với thủy tinh. Ông không thể biết căn nguyên của chúng sanh
thì không được phát khởi dùng pháp tiểu thừa. (phát khởi là chỉ
dạy, dùng pháp tiểu thừa). Những người kia không có thương tích
thì ông chớ có làm thành thương tích. Muốn đi con đường lớn thì
chớ chỉ lối nhỏ. không có đem biển cả mà để vào dấu chân trâu.
Không có đem ánh sáng mặt trời cho là bằng với ánh sáng con đom
đóm. Này Phú Lây Na! Những vị Tỳ Kheo này xưa kia phát tâm đại
thừa. Ở khoảng giữa đó quên ý này. Tại sao dùng pháp tiểu thừa
mà hướng dẫn họ? Tôi xem những trí tuệ của tiểu thừa rất là cạn
nhỏ. giống như là những người mù không thể phân biệt tất cả căn
cơ lợi độn của chúng sanh.
-
Khi ấy ông Duy Ma Cật liền nhập định khiến cho những vị Tỳ kheo
này tự nhớ lại túc mạng (tức là mạng đời trước của họ), từng ở
chỗ 500 đức Phật gieo trồng cội gốc công đức. Hồi hướng về vô
thượng chánh đẳng Bồ đề. Liền khi đó hoát nhiên nhớ lại cái tâm
trước. Khi ấy các vị Tỳ Kheo này cúi đầu lễ dưới chân ông Duy Ma
Cật. Khi ông Duy Ma Cật nhân vì nói pháp thì những vị đó đều
phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác không thối chuyển. Con
nghĩ hàng Thanh Văn không quán được căn cơ chúng sanh thì không
nên nói pháp. Thế nên con không đến thăm bệnh ông ấy.
-
Như vậy ở đoạn này là chỉ nói pháp thì phải hợp cơ, phải không?
Thuyết pháp thì phải hợp cơ. Mà muốn thuyết pháp hợp cơ thì phải
biết trình độ, căn cơ của người ta mà nói. Chớ đừng nói với tánh
cách thấy đâu nói đó, biết đâu nói đó. Như vậy không có lợi ích
cho người. Người trình độ cao mà mình nói pháp thấp thì chỉ có
hại chớ không có lợi. Ngược lại người trình độ thấp mà nói pháp
cao chỉ vô ích đối với họ thôi. Cho nên nói pháp phải hợp cơ.
Ngài Mãn Từ Tử hay Phú Lâu Na này, Ngài thuyết pháp chỉ nghe
Phật nói rồi Ngài ôn lại cho những vị Tỳ Kheo, chớ Ngài không có
thấy, không biết được căn cơ những vị đó.
-
Như vậy với ông Duy Ma Cật, ông nhập định khiến người ta nhớ
được bổn tâm. Còn mình bây giờ nhập định không được rồi sao đây.
Bây giờ, phải làm sao? Bởi vậy phải dò dẫm. Khi muốn nói pháp
thì phải dò dẫm để biết trình độ, căn cơ của họ. Bởi vì thuở xa
xưa mình không biết được. Nhưng sở thích hiện tại mình dò dẫm
một hồi có thể biết để nói pháp cho họ. Kế đến.
-
Phật bảo Ngài Ma Ha Ca Chiên Diên:
-
Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.
-
Ngài Ca Chiên Diên bạch Phật rằng:
-
Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ
thuở xưa Phật vì các thầy Tỳ Kheo lược nói pháp yếu. Con liền
sau đó mới diễn bày nghĩa kia (Nghĩa là, nghĩa gì, nghĩa vô
thường, nghĩa khổ, nghĩa không, nghĩa vô ngã, nghĩa tịch diệt
(tức là Niết bàn). Khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng:
-
Vâng! Ngài Ca Chiên Diên, không nên dùng cái tâm hạnh sanh diệt
mà nói pháp thật tướng. Này Ca Chiên Diên, các pháp cứu cánh
không sanh không diệt ấy là nghĩa vô thường. Ngũ thọ ấm rỗng
suốt, không có chỗ khởi, ấy là nghĩa khổ. Các pháp cứu cánh
không có (vô sở hữu tức là không có), ấy là nghĩa vô ngã. Pháp
xưa không sanh nay ắt không diệt, ấy là nghĩa tịch diệt.
-
Khi nói pháp này những vị Tỳ Kheo tâm liền được giải thoát. Cho
nên con không có thể đến thăm bệnh ông ấy.
-
Như vậy, Ngài Ca Chiên Diên cũng là một người rất nổi tiếng về
giảng pháp. Nhưng bây giờ Ngài ôn lại những lời Phật dạy cho
những vị Tỳ Kheo nghe. Khi đó bị ông Duy Ma Cật quỡ. Ôn lại cái
gì. Ôn lại cái nghĩa vô thường, nghĩa khổ, nghĩa không, nghĩa vô
ngã, nghĩa tịch diệt. Bốn cái đó: Vô thường, khổ, không, vô ngã
và Niết bàn hay là tịch diệt là tứ pháp ấm đó. Bốn điều rất là
quan trọng ở trong Phật pháp. Bốn điều này theo ông Duy Ma Cật
nói thấy làm sao? Không có dùng tâm hạnh sanh diệt mà nói thật
tướng các pháp. Ông chuyển về nói: Vô thường, không, vô ngã và
Niết bàn là đứng về pháp tướng hư dối mà nói. Chớ không phải
thật tướng. Tức là tướng đối đãi hư dối mà nói. Bây giờ muốn nói
pháp thật tướng thì phải làm sao? Đây ông giải thích: các pháp
cứu cánh không sanh, không diệt. Ấy là nghĩa vô thường. Đã không
sanh, không diệt, sao gọi là vô thường. Mình nói vô thường là
làm sao? Bởi vì nó có sinh diệt, phải không? Sinh diệt cho nên
nói vô thường. Mà đã không sinh, không diệt, tại sao nói vô
thường. Đứng về pháp tánh không sanh, không diệt nhưng mà duyên
hợp thành tướng. Mà duyên hợp thành tướng thì mới có sanh có
diệt. Nên sanh diệt đó là tướng của các pháp. Gọi nó là vô
thường. Mà pháp tánh là không sanh, không diệt. Cũng như cái bàn
này, cái tánh bàn là không, phải không? Nhưng mà duyên hợp thì
có. Như vậy từ cái tánh không đó, cái tánh không có sanh, có
diệt không? Nhưng mà khi duyên hợp rồi có. Bởi duyên hợp có cho
nên mới có sinh diệt là vô thường. Như vậy nói vô thường là chỉ
cho giả tướng duyên hợp. Còn pháp tánh thì không sanh, không
diệt.
- --o0o--
|
|