|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
-
PHẦN CHÍN
-
-
Bây giờ ông Duy Ma
Cật lại nói thêm. Nói tất cả tâm tướng của chúng sanh là không
cấu. Cũng như vậy đó là không cấu. Bây giờ vọng tưởng là cấu, mà
không vọng tưởng là tịnh. Điên đảo là cấu, không điên đảo là
tịnh. Bây giờ mình thấy rõ cái tu của mình chưa. Mình bỏ vọng
tưởng là để làm chi? Để tịnh. Hết vọng tưởng là tịnh. Tịnh tức
là giải thoát. Giải thoát tức là giác ngộ. Nếu còn vọng tưởng
thì đó là cấu là nhơ. Điên đảo với vọng tưởng cũng gần nhau, là
anh em thôi, phải không? Có vọng tưởng mới có điên đảo. Không có
vọng tưởng, có điên đảo không? Cho nên chỗ khác Bát Nhã kết luận
thì vọng tưởng điên đảo phải không? Hai cái đi chung. Nhưng đây
thì phân riêng cho có thứ tự vậy thôi. Có vọng tưởng mới có điên
đảo. Không vọng tưởng làm gì có điên đảo. Như vậy vọng tưởng
điên đảo là cấu. Không vọng tưởng điên đảo là tịnh.
-
Chuyện này thật là rõ
như ban ngày. Chúng ta dù có giữ giới, giữ luật gì đi nữa, mà
nếu cái ngã mình chấp nặng thì giữ giới, giữ luật đó có giải
thoát được không? Thí dụ: tôi nói như giới luật thường của mình
đó. Tỳ Kheo không được cuốc đất. Tỳ Kheo không được làm cho cây
cỏ bị hại. Thí dụ như không được bứt cỏ tươi... Mình giữ luật đó
hết sức là nghiêm trang. Nhưng mình thấy người này, thấy người
kia không giữ được như mình, rồi mình khinh họ. Như vậy còn ngã
không. Nếu còn ngã thì giải thoát nổi không? Giải thoát là chỗ
không có ngã, dù cho mình lăn lộn giữa quần chúng mà cái chấp
ngã mình không còn thì mình được thanh tịnh. Còn nếu mình làm
cái gì, ngồi trong đạo tràng mà cái ngã mình cũng cao vòi vọi
đó, cũng là cấu như thường. Chủ yếu là phải đừng chấp ngã. Bởi
vì tất cả phiền não, ngã mạng, nóng giận, kiêu căng v.v... đều
phát nguồn từ chấp ngã mà ra, phải không? có khi nào thấy mình
không ra gì hết, mà người ta động tới mình giận không? Nghĩa là
thấy ta quan trọng, động tới cho nên nổi sân liền. Như vậy mọi
phiền não gốc từ cái ngã. Nếu không ngã thì còn gì phiền não.
Không phiền não thì không phải tịnh là gì? Còn nếu còn ngã tất
nhiên còn có phiền não. Còn phiền não cho nên gọi là cấu. Như
vậy lời giảng của ông Duy Ma Cật rất là chí lý, chỉ thẳng cái
thực cho mình biết. Chớ đừng có chấp tướng. Nhiều khi mình chấp
tướng. Vì trong kinh Phật cũng như trong luật Phật, Phật làm cái
gì nó có ý nghĩa ngay trong thời đó. Rồi mình không biết, mình
lấy ý nghĩa ngay trong thời đó, đem qua thời khác mình nhìn. Tôi
nói thí dụ: Như luật Tỳ Kheo của chúng ta, trong đó phần y và
bát hết bao nhiêu? Nếu nói y bát hết 1/3 số giới luật rồi. Bây
giờ y thì mình cũng không mang ba y. Bát thì mình cũng không
quảy bát đi khất thực. Như vậy làm sao? Thí dụ: Như bây giờ
chúng ta ở Thiền viện, hay là một ngôi Già Lam. Chúng ta tu
không có quấn y, không mang bát đi khất thực. Với một người quấn
y mang bát khất thực đúng y như trong luật dạy, họ nhìn chúng ta
họ khen hay họ chê? Họ chê. Mấy ông thầy này không giữ giới,
không giữ luật. Nếu chúng ta ở trong Thiền viện, ở trong ngôi
Già Lam, chúng ta sống rất là bình dị, đơn giản, cái ngã chúng
ta mất đi. Như vậy đối với người mang bình bát, quấn ba y đi
khất thực mà cái ngã còn, thì ai hơn ai. Ai hơn ai? Như vậy cái
trọng tâm không phải là giữ cái hình tướng. Mà trọng tâm phải
phá được cái gốc ở trong. Gốc ở trong là cái ngã phải không? Vì
vậy mà sự tu của chúng ta phải thấu tường tận gốc rễ của nó.
Hiểu vậy rồi, hiểu tại sao mà tinh thần Đại thừa lại không quan
trọng những hình thức. Bởi vì hình thức là tướng bên ngoài, tạm
trong lúc cần đó. Còn chủ yếu là bên trong. Làm sao phá được cái
ngã đó mới là gốc. Bởi vậy chúng ta tu phải thực. Nói vậy không
phải một chiều. Nếu chúng ta tu, chúng ta không quấn y, không
mang bát đi khất thực, mà chúng ta lại thêm cái ngã lớn nữa thì
trúng hay trật? Nếu mà không chấp tướng mà còn chấp ngã thì lại
còn trật hơn nữa, phải không? Tuy không chấp tướng mà chấp ngã
thì đó là bệnh thôi. Cho nên khi không chấp tướng thì cũng đừng
chấp ngã nữa mới trúng, phải không? Chớ không chấp tướng mà chấp
ngã lại càng trật.
-
Đây thêm một đoạn,
ông nói rằng tất cả pháp sanh diệt không dừng như huyễn, như
điện. Các pháp không đối đãi cho đến một niệm cũng không dừng.
Các pháp đều do vọng kiến, như mộng, như ánh nắng, như là mặt
trời trong nước, như là bóng trong gương v.v... đều do vọng
tưởng sanh. Như vậy nếu ai thấy được các pháp như huyễn như hóa,
như trăng trong nước, như bóng trong gương. Hằng thấy như vậy và
biết tất cả đều do vọng tưởng sanh, thì người đó là người giữ
giới, giữ luật. Tại sao vậy? Sở dĩ giới luật cấm là không cho
chúng ta tham ngũ dục. Không cho chúng ta nhiễm ngũ dục. Không
cho chúng vì ngũ dục mà tạo nên tội lỗi. Bây giờ chúng ta thâý
ngũ dục như là bóng, như là trăng đáy nước, như là huyễn hóa thì
còn gì mà tham. Không tham thì còn gì mà nhiễm. Thấy đúng như
vậy đó là mình giữ giới, giữ luật rồi. Còn mình thấy nó thật thì
chưa được trọn vẹn. Ngài cũng nói rằng nếu người nào biết được
như vậy mới gọi là khéo hiểu.
-
Như vậy đoạn trước
ông chỉ cho chúng ta thấy được rằng tánh tội không thật. Từ tâm
mà ra. Tâm cũng không thật nữa, cho nên tâm không thật, tội
không thật đều trở về như.
-
Rồi đến đoạn hai chỉ
rằng, tất cả tâm cấu thì ngã củng là cấu, chúng sanh cấu đó. Tâm
mà nhơ thì chúng sanh cũng nhơ. Tâm mà sạch thì chúng sanh sạch.
Cho tới vọng tưởng là nhơ. Hết vọng tưởng là sạch v.v... Như vậy
chỉ cho thấy rằng tất cả tội gốc từ tâm mà ra. Nếu tâm thanh
tịnh thì muôn tội theo đó đều hết.
-
Thứ ba là cho chúng
ta thấy tất cả pháp như huyễn như hóa. Biết rõ các pháp như
huyễn như hóa, không kẹt, đó là người chân chánh giữ luật. Khi
các thầy Tỳ Kheo này nghe ông Duy Ma Cật nói như vậy rồi, họ
lãnh hội được, họ phát tâm bồ đề.
-
Phật bảo La Hầu La:
-
( Ông đi đến thăm
bệnh ông Duy Ma Cật.
-
Ngài La Hầu La bạch
Phật rằng:
-
( Thế Tôn con không
kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa ở thành
Tỳ Xá Ly có các ông trưởng giả đến chỗ của con cúi đầu làm lễ,
hỏi con rằng:
-
( Vâng! Ngài La Hầu
La. Ông là con của Phật đã bỏ ngôi Chuyễn Luân Thánh Vương đi
xuất gia, hành đạo. Xuất gia đó có lợi ích gì? Con liền đúng như
pháp vì họ mà nói lợi ích của công đức xuất gia.
-
Khi ấy ông Duy Ma Cật
đến bảo con rằng:
-
( Vâng! Ngài La Hầu
La. Không nên nói cái lợi công đức của người xuất gia. Vì cớ
sao? Không có lợi, không có công đức, ấy là xuất gia.
-
Nghe ngược ngạo quá
phải không? Như vậy tới chỗ này mình có hai cái nhìn. Cái nhìn
của Ngài La Hầu La là nhìn trên hình tướng. Nếu người xuất gia
sẽ có những lợi gì, được những công đức gì? Trong kinh Phật cũng
đã nói cái lợi ích đó chỉ là cái ích lợi đối đãi của tướng hữu
vi thôi. Chớ không phải là nói tới ích lợi của cái vô vi.
-
Còn ông Duy Ma Cật
thì ông nhìn người xuất gia là đi thẳng về chỗ vô vi, không có
tướng. Không có tướng thì nói gì có lợi, có công đức.
-
Chỗ này giống với chỗ
mà vua Lương Võ Đế hỏi Ngài Đạt Ma, phải không? Nói ông tạo
chùa, cất chùa và nuôi Tăng chúng v.v... rất là nhiều. Vậy có
lợi ích, có công đức gì không? ngài liền nói:
-
( Không! Không có
công đức.
-
Như vậy cái nhìn của
ôg Duy Ma Cật gần với cái nhìn của nhà Thiền. Bởi vì nói công
đức, nói phước đức thì chỉ là cái hình tướng sanh diệt. Còn chỗ
chân thật đó ra ngoài các tướng đối đãi. Cho nên nói là không. Ở
đây ông nói cũng giống hết như vậy. Nghĩa là nếu nói xuất gia
thì không có lợi, không có công đức. Nhưng mà bây giờ đa số
người nói xuất gia không lợi, không công đức thì họ có muốn xuất
gia không? Có lợi. Có công đức gì mới ham tu chớ. Không lợi,
không công đức tu làm chi. Nhưng đây là lẽ thực, bởi vì đi tới
chỗ vô vi giải thoát thì không còn nằm trên giả tướng thì làm gì
thấy có lợi, có công đức. Cho nên sau mới nói thêm cho rõ.
-
Pháp hữu vi thì có
thể nói có lợi, có công đức. Còn phàm người xuất gia là vì pháp
vô vi. Mà trong pháp vô vi thì không có lợi, không có công đức.
-
Như vậy ông xác nhận,
sở dĩ ông nói không có lợi, không công đức là đứng trên mặt vô
vi mà nói, phải không? Thí dụ: Như mình mình nói bây giờ người
xuất gia thì khỏi bận chuyện gia đình, khỏi lo con cái nên rảng
rang tu hành. Cái lợi đó toàn là cái lợi của hình thức thôi,
phải không? Chớ đâu có phải là đi thẳng trong vô vi. Chủ yếu
người xuất gia có người nào xuất gia mà chỉ muốn được cái phước
tương đối đâu, phải không? Đề muốn giải thoát. Mà giải thoát tức
là đi tới chỗ vô vi. Cho nên đây là nói thẳng mục đích, cứu cánh
đó. Đến trường hợp thứ hai.
-
La Hầu La, người xuất
gia đó, không kia, không đây, cũng không trung gian. Lìa 62 kiến
chấp ở nơi Niết bàn, người trí thọ nhận (tức là chỗ thọ nhận của
người trí) là chỗ sở hành của hàng thánh giả, hàng phục chúng ma
(như vậy thì người xuất gia là người thoát khỏi ngã, chúng sinh.
Bỉ thử tức là ngã, nhơn, chúng sanh đó) và lìa tất cả kiến chấp
hừng ở nơi Niết bàn. Độ được 5 đạo (độ tức là qua được ngũ thú
đó. Ngũ đạo hoặc ngũ thú cũng giống nhau. Qua được ngũ thú tức
là không còn sanh trong năm đường đó nữa.). Trong sạch được ngũ
nhãn, được ngũ lực, đứng trên ngũ căn (hay thành lập được ngũ
căn). Không có não hại người khác. Lìa các tạp ác, dẹp pháp các
ngoại đạo. Vượt khỏi các giả danh. Ra khỏi chỗ bùn lầy. Không bị
trói buộc. Không có ngã sở. Không có sở thọ. Không có bị nhiễu
loạn. Ở thì ôm lòng vui vẻ, bảo hộ cái ý kia. Tùy thuận Thiền
định, lìa các lỗi ác. Như vậy đó là tinh thần xuất gia. Nếu hay
như vậy đó, ấy là người chơn xuất gia.
-
Chơn xuất gia ở đây
ông nói là mình phải rời cả ngã và ngã sở và hằng đứng trên bờ
Niết bàn. Hằng vượt ra khỏi mọi trói buộc, nhiễm ô và hằng ở
trong Thiền định. Như vậy mới thật là xuất gia.
-
Xuất gia chúng ta nhớ
có mấy nghĩa? Một là xất thế tục gia. Hai là xuất phiền não gia.
Ba la xuất tam giới gia. Như vậy chỗ này ông nói là xuất cái gì
gia? Tức là chúng ta phải ra khỏi tam giới, phải đứng trên bờ
Niết bàn. Chớ không phải chỉ ra khỏi nhà thế tục thôi. Bây giờ
phần nhiều chúng ta hay nói xuất gia có lợi ích là xuất gia ở
trong nhà thế tục. Từ nhà thế tục mà ra khỏi có lợi ích gì? Chớ
mà ít có xuất phiền não gia. Xuất tam giới gia mà xuất phiền não
gia là hai chỗ mà ở đây ông muốn nói. Như vậy tất cả mọi người
nếu chúng ta nhìn lại,nói rằng chỉ khi nào bỏ nhà cha mẹ vào
chùa là xuất gia. Nếu hiểu ngang chừng đó thì đời tu chưa có giá
trị gì, phải không. Nếu chưa phá được phiền não, mình chưa ra
khỏi tam giới tức là chưa được giải thoát, thì xuất gia chưa
đúng nghĩa xuất gia. Muốn đúng nghĩa xuất gia là phải dẹp sạch
phiền não, phải được giải thoát sanh tử. Ra khỏi tam giới tức là
giải thoát sanh tử. Đó mới là mục đích cứu cánh của người xuất
gia. Cho nên ở đây ông nói chơn chánh xuất gia là phải như vậy
đó. Như vậy đó là làm cho sáng tỏ thêm nghĩa xuất gia của người
tu. Chớ không phải là ông nói lý suông.
-
Khi đó ông Duy Ma Cật
bảo các Trưởng giả rằng: “Các ông nên ở trong chánh pháp mà phát
tâm xuất gia. Vì cớ sao? Vì Phật ra đời rất khó được gặp.
-
Như vậy thì các ông
nên ở trong chánh pháp mà phát tâm xuất gia. Tại sao? Bởi vì khó
gặp được đức Phật ra đời. Các ông Trưởng giả mới nói rằng
(Trưởng giả này là Trưởng giả tử là con đó, chớ không phải
Trưởng giả lớn.
-
Các Trưởng giả này
thưa rằng:
-
( Thưa cư sĩ, chúng
tôi nghe Phật nói cha mẹ không cho thì không được xuất gia (tức
là cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia).
-
Ông Duy Ma Cật nói:
-
( Đúng vậy! Các ông
liền phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Âúy là xuất gia,
ấy tức là thọ giới cụ túc.
-
Ở đây ông không nặng
về hình thức xuất gia là cạo tóc, vô chùa phải không?
-
Ông bảo xuất gia là
phải phát tâm cầu thành Phật, đó là xuất gia, đó là thọ giới cụ
túc. Bởi vì tất cả người xuất gia có người nào không cầu thành
Phật mà xuất gia không. Phải không? Cầu thành Phật là mục tiêu
cứu cánh. Như vậy mình nhắm vào mục tiêu cứu cánh đó mà làm mà
tiến. Đó gọi là xuất gia.
-
Khi ấy 32 người con
ông trưởng giả đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cho
nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.
-
Như vậy chúng ta có
thể tóm lại cho dễ nhớ. Ở đây Ngài Duy Ma Cật muốn nói cái nghĩa
xuất gia là đi thẳng vào giải thoát, là pháp vô vi. Chớ không
phải xuất gia là pháp hữu vi. Cho nên khuyên Ngài La Hầu La đừng
lấy cái lợi của pháp hữu vi mà nói với các con ông Trưởng giả.
Rồi tới đoạn kế muốn giảng trạch rằng người xuất gia là người
phá được tất cả phiền não ra ra khỏi nhà tam giới. Đứng ở trên
bờ Niết bàn. Đó mới là người chân thật xuất gia. Như vậy chúng
ta thấy ý nghĩa xuất gia này thật là thâm sâu. Kế đó là Ngài A
Nan. Ngài A Nan thật là đáng thương.
-
Phật bảo Ngài A Nan:
-
( Ông đi đến thăm
bênh ông Duy Ma Cật.
-
A Nan bạch Phật
rằng:
-
( Thế Tôn! Con không
kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa Thế Tôn
thân có chút ít bệnh, phải dùng sửa bò. Con liền mang bát đến
nhà đại Bà La Môn đứng ở dưới cổng (hay là dưới cửa. Đứng ở dưới
cổng vì nhà người có có cái cổng lớn ở trước. Đứng ở dưới cổng
tức là ngay trước cửa nhìn vô, chờ người ta thấy để người ta kêu
vô cho). Khi ấy ông Duy Ma Cật đến hỏi con rằng:
-
( Vâng! Ngài A Nan,
vì sao mà sáng sớm mang bát đến đứng đây (chữ này là “Triêu” chớ
không đọc là “Triều” được)?
-
Con nói rằng:
-
( Này cư sĩ! Thân Thế
Tôn có chút ít bệnh phải dùng sửa bò. Cho nên tôi đến đứng đây.
-
Ông Duy Ma Cật nói:
-
( Thôi! Thôi! A Nan
chớ có nói lời ấy. Thân Như Lai là thể Kim cang. Các cái ác đã
dứt. Các cái thiện đã đầy đủ. Làm gì mà có bệnh, làm gì mà có
não. Thôi lặng lẽ đi A Nan. Chớ có chê bai Như Lai (đuổi đi).
Chớ có khiến những ngoại đạo nghe lời thô này. Không khiến cho
những chư Thiên có đầy đủ oai đức và những vị Bồ tát ở các cõi
Tịnh độ khác được nghe lời này. Thôi ông đi đi (lặng lẽ đi đi.
Chớ đừng để ngoại đạo nghe hoặc chư Thiên hoặc các vị Bồ tát ở
cõi khác nghe. Cái này xấu hổ lắm.). A Nan! Vị Chuyển Luân Thánh
Vương chỉ có một chút ít phước mà còn được không bệnh. Huống nữa
là Như Lai được vô lượng phước đức, khắp cả thù thắng thay (Khắp
thắng giả tai tức là khắp hết thù thắng đó ư!) Hãy đi A Nan! Chớ
khiến chúng tôi nhận ra lời này mà sanh hổ thẹn (Hay là chớ
khiến cho chúng tôi phải sinh ra hổ thẹn)! Ngoại đạo thậm chí
nếu nghe được lời này thì khởi nghĩ thế này: Sao gọi là thầy. Tự
mình bệnh mà không có thể cứu được mà hay cứu bệnh cho người
khác. Như vậy thôi đi A Nan. Ông đừng để cho chúng tôi hổ thẹn.
-
Tại sao hổ thẹn? Vì
ngoại đạo thậm chí nghe nói lời này thì họ liền đặt câu hỏi. Tại
sao mà Thầy là Thầy mà bệnh mình không cứu được mà nói cứu bệnh
người khác. Vô lý phải không? Bởi vậy tôi nói mấy chú tu ráng.
Bệnh có hai thứ: Bệnh thân và bệnh tâm. Thân cũng khuyên Phật tử
tu hành. Ngồi thiền ít bệnh mà mình bệnh rề rề. Thật là xấu hổ
cho tôi biết mấy, phải không? Mỗi khi nói với Phật tử, tôi nói
người ngồi thiền ít bệnh mà mấy chú cứ rề rề, rề rề hoài. Thực
là điều tủi nhục cho tôi, phải không? Tôi nói ít bệnh, mấy chú
ngồi thiền giỏi thì ít bệnh. Chớ thầy nói ngồi thiền ít bệnh, mà
mấy thầy đây đêm nào cũng ngồi thiền mà thầy nào cũng rên bệnh
hết thì có phải xấu hổ cho tôi không? Đó là nói về thân.
-
Nói về tâm, mình là
người tu. Mình nói tu là để diệt phiền não, để hết khổ đau, phải
vậy không? có người nào nói tôi tu là tôi nuôi phiền não. Đâu có
ai nói vậy. Đã nói là diệt phiền não thì ít ra vào chùa ở 5
tháng, 10 tháng cũng thấy mấy thầy cười hoài mới phải chớ. Hết
phiền não. Còn nếu không hết cũng bớt phiền não rồi. Chớ ít bữa
thấy người này sân. Ít bữa thấy người kia quạu. Ít bữa nữa thấy
người kia khóc. Như vậy còn phiền não không? Nói rằng tu để diệt
phiền não thì cũng chưa có nữa. Nếu mình chưa diệt được phiền
não mà dạy người ta diệt phiền não là làm sao. Được không?
-
Bởi vậy nhiều khi tôi
nói tôi xấu hổ khi có mấy người Phật tử nói: “Thầy con hôm trước
giận mấy ông điệu, muốn bỏ đi. Tụi con lại năn nĩ hết sức Thầy
mới ở lại”. Nghe vậy có xấu hổ không? Nếu Thầy không có phiền
não thì Thầy đâu có bỏ đi. Mà Thầy bỏ đi tức là Thầy phiền não
quá. Nhờ Phật tử an ủi Thầy mới bớt phiền não. Như vậy khi phiền
não của Phật tử, họ khổ sở, họ tới họ nhờ Thầy an ủi cho bớt.
Rồi bây giờ Thầy phiền não thì nhờ Phật tử tới an ủi lại. Như
vậy mình và Phật tử có hơn bao nhiêu không? Kiểm lại coi hơn bao
nhiêu? Như vậy cái đó là để thấy xấu hổ của người tu. Mình tu
phải là người để an ủi, để dạy dỗ, để khuyên lơn họ. Mà muốn an
ủi, dạy dỗ, khuyên lơn họ, cái đó mình đã qua rồi, phải không?
Qua rồi mới dạy họ chớ. Nếu mình chưa qua, mình bảo họ làm, thì
điều đó thực là... theo thế thường là đổi công cho nhau đó. Bữa
nay họ phiền não tới mình an ủi. Mai mình phiền não thì họ tới
an ủi. Đổi qua đổi lại chớ không ai hơn ai hết. Như vậy không có
nghĩa là Thầy nữa. Cho nên mấy chú ráng. Nhiều khi tôi thấy có
những lúc muốn bực, muốn la lận. Mà nghĩ nếu la mấy chú nói mình
sân, phải không? Còn không la thì mấy chú cứ tưởng làm như vậy
là hay. Cứ nay chú này rên, con bệnh quá. Mai chú kia rên, bệnh
quá, ngồi thiền không nổi. Như vậy tại sao không gan. Đó rồi
thêm một cái, ít bửa chú này phiền não chú kia. Chú kia phiền
não chú nọ. Như vậy thiệt là... đi tới đây để cốt dứt trừ phiền
não, mà nói bị phiền não. Vô lý quá! Bị thì bỏ đi. Bị phiền não
thì bỏ đi phức đi cho rồi. Khỏi thưa hỏi cho mất thì giờ. Nhưng
mà không chịu, cũng ôm đó để đi thưa, đi trình. Như vậy mới thấy
rằng chưa gan, chưa dám dứt khoát. Chớ tất cả những cái đó là
những cái mình bỏ được dễ ợt chớ gì.
-
Thí dụ: Bây giờ huynh
nào đó nói hơn mình hoặc chỉ trích mình không đúng. Họ chỉ trích
không đúng, thì họ thấy sai, họ thấy bậy, bỏ qua cho rồi, phải
không? Thưa kiện làm chi cho mất thì giờ. Đó là những điều mà
tôi nói lẽ thực như vậy, đó mà cũng đi thưa. Dễ nổi giận không?
Nổi giận mà nạt thì... Muốn nạt là nạt để cho thấy cái đó không
xứng đáng. Lý đáng là mình đã qua rồi mà còn mang lại làm gì.
Nhưng nếu nạt thì nói Thầy còn sân, cũng còn phiền não. Thôi bỏ
qua đừng giận. Đó là những cái mấy chú thấy, nghĩa là sự thực
của tu đó. Nó là gốc để mình đi tới chỗ giải thoát. Gốc giải
thoát mà mình không chịu ôm cái gốc đó. mình cứ vin những cành
phiền não, những lá phiền não mà mình mệt nhọc với nó làm chi,
phải không? bởi vậy mình phải gan. Gan dạ một chút mới có thể
tiến được. Tôi khoe với người ta, tôi nói tôi hồi xưa bệnh phổi,
trị chưa được hết lắm mà tôi ngồi thiền riết hết. Bây giờ mấy
chú ho khẹt khẹt 3,4 bữa, lại thưa thầy chắc con bệnh phổi rồi.
Tôi rầy, tôi nói không có bệnh phổi đâu mà sợ. Nói vậy mấy chú
nói mình không thương, phải không? Thành ra nó khó thật. Còn nếu
người nào ngồi thiền rồi ít bữa ho cũng la bệnh phổi hết. Như
vậy lối tu mà mình nói với thiên hạ trở thành mâu thuẫn. Mâu
thuẫn ngay trong hàng ngũ của mình phải không? Cho nên mấy chú
tập gan một chút để giữ uy tín. Không phải tôi nói giữ uy tín
suông mà chính là để cho mấy chú có một sức chịu đựng, thắng
được những cơn bệnh nhỏ và gan dạ trong cuộc tu hành, chớ đừng
yếu đuối. Yếu đuối rồi trở thành mâu thuẫn với việc làm của
mình. Đó là tôi nói câu ông thầy mà ổng còn bệnh thì làm sao cứu
được người bệnh khác, người khác bệnh, phải không? Vậy mấy chú
muốn khi nào khuyên lơn ai thì nhớ dòm lại mình coi đã. Mình
bệnh nhiều, bệnh ít. Nếu mình gần hết bệnh thì khuyên họ dễ. Còn
mình bệnh như họ, e rằng khuyên mắc cỡ lắm. Hổ thẹn lắm đó.
-
Phải lén đi mau chớ
khiến cho người ta nghe. Phải biết! A Nan thân Như Lai tức là
pháp thân không phải thân tư dục. Phật là bậc Thế Tôn vượt qua
cả tam giới. Thân Phật không có lậu, các lậu đã dứt (lậu tức là
mầm phiền não làm rơi trong tam giới đã dứt). Thân Phật là vô
vi, không có rơi vào các số (số tức là các loại. Loại người bậc
này, bậc nọ). Thân như thế ấy thì nào có bệnh gì. Đâu có bệnh
gì.
-
Như vậy ở đây biểu
Ngài A Nan phải lén đi cho nhanh, chớ đừng để cho người ta nghe.
Tại sao vậy? Vì ông phải biết thân Phật là pháp thân. Pháp thân
là thân đã vượt ra khỏi tam giới. Cái thân đó nó là vô vi, nó
không còn bệnh gì nữa hết.
-
Bạch Thế Tôn! Khi ấy
con thật là hổ thẹn. Được gần gũi Phật mà có thể nghe lầm hay
sao?
-
Như vậy lúc đó ông hổ
thẹn quá! Con bị đuổi đi hoài, cho nên tự tủi. Rồi không biết
mình gần Phật mà không biết mình có nghe lầm không? Phật nói
Phật bệnh. Bây giờ mình đi xin sữa cho Phật mà ổng đuổi như vậy
đó. vậy mình có nghe lầm chăng?
-
Nhưng liền khi ấy ở
trong không trung có tiếng: Này! A Nan! Như lời của cư sĩ nói.
-
Như vậy xác nhận thêm
nữa. Trong đó xác nhận ông cư sĩ nói đúng.
-
Chỉ vì Phật muốn ra
khỏi đời ngũ trược ác thế mà hiện pháp này để độ thoát chúng
sanh.
-
Hiện cái pháp này là
hiện trong cảnh còn có già, còn có bệnh, còn có tử đó, để độ
thoát chúng sanh.
-
Vậy thì hãy đi A Nan.
Ông nhận lấy sữa chớ có hổ thẹn.
-
Bạch Thế Tôn! Ông Duy
Ma Cật trí tuệ biện tài như thế. Thế nên con không có dám đến
thăm bệnh ông.
-
Như vậy đến chỗ chót
này là nói thẳng quan niệm về thân Phật. Hàng Nhị Thừa quan niệm
về thân Phật thế nào? Hàng Bồ tát quan niệm về thân Phật thế
nào?
-
Hàng Nhị Thừa quan
niệm thân Phật là thân có 32 tướng tốt hiện ở thế gian. Cho nên
chúng ta đọc sử mà muốn tìm sự thật thì các phần trong kinh sử
của Nguyên Thủy rất là xác thực. Còn nếu chúng ta đọc sử mà lấy
những phần ở trong giáo lý Đại Thừa này thì sử đó thuộc về lý
tưởng không xác thực. Tại sao vậy? Tại vì bên kia nhìn Phật là
thân hiện hữu ở thế gian này, có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp v.v...
Thân đó là thân Phật.
-
Nhưng bên tinh thần
Đại thừa thấy Phật là pháp thân. Pháp thân là thể kim cương, bất
sanh, bất diệt. Ở thế gian có gì goi là cứng nhất? Đó là kim
cương. Cho nên dùng chữ kim cương làm thí dụ. Vì thân Phật là
không sanh không diệt. Đó là pháp thân.
-
Như vậy một bên nhìn
thân Phật hiện tại gọi là báo thân hay là ứng thân. Còn bên kia
nhìn về pháp thân. Pháp thân là cái thân lý tưởng chớ không phải
thân cụ thể trong khi Phật còn ở Ấn Độ. Nhớ rõ như vậy. Bên đây
nhìn là báo thân hay là ứng thân cho nên thấy có bệnh. Rồi đi
xin thuốc trị bênh. Còn bên kia nhìn Phật là pháp thân. Pháp
thân thì không có tướng. Không có tướng làm sao có bệnh. Không
có bệnh mà nói là đi xin thuốc trị bệnh là chuyện vô lý.
-
Như vậy hai vị, mỗi
vị nhìn khác nhau, mình nói ai đúng? Ai cũng đúng hết. Vì một
bên nhìn về báo thân, bên nhìn về pháp thân, hay bên nhìn về ứng
thân, bên nhìn về pháp thân. Cứu cánh của người tu là mình phải
đạt được pháp thân. Bởi vì ứng thân hay báo thân là tướng sinh
diệt. Có nó, dù nó đẹp nhưng rồi cũng phải hoại, phải không? Nếu
tu rồi hưởng trong mấy chục năm, rồi hoại, thì cái đó chưa xứng
đáng. Cho nên chúng ta tu là phải đạt được pháp thân bất sinh,
bất diệt. Đó mới là cái cứu cánh, cái mục đích của người tu.
-
Như vậy chỗ cứu cánh
của người tu là phải đến pháp thân. Pháp thân là lý tưởng cứu
cánh của mình. Chớ không phải là ứng và báo. Cho nên bên này
nhìn về chỗ cứu cánh sau cùng. Bên kia nhìn về cái tướng hiện
hữu. Hai cái khác nhau. Tuy khác nhưng rồi cũng từ cái này mà
đạt đến cái kia. Như mình bây giờ đang mang thân này là thân
sinh diệt. Nhưng bây giờ muốn đạt được pháp thân, mình bỏ cái
sinh diệt này được không? Cũng không được. Cho nên từ tướng sanh
diệt để tiến tới chỗ vô sanh, đó mới đúng với chân thật. Như vậy
qua phần của Ngài A Nan. Bây giờ tóm kết.
-
Như thế 500 vị đại đệ
tử mỗi vị hướng về Phật nói về duyên trước kia, để khen ngợi ông
Duy Ma Cật, lời nói ông Duy Ma Cật. Đều nói rằng không kham đến
thăm bệnh ông ấy.
- --o0o--
|
|